Người con ưu tú của quê hương Mê Linh
Hai Bà Trưng Trắc và Trưng Nhị là hai chị em sinh đôi, sinh ngày 01/8 năm Giáp Tuất (tức năm 14 Sau Công nguyên), mất ngày 8/3 năm Quý Mão (tức năm 43 Sau Công nguyên). Hai Bà Trưng là “Anh hùng, hào kiệt thế gian khó sánh”, được nhân dân suy tôn làm Trưng Thánh Vương “Danh thơm muôn thuở vọng cõi trời nam”, Người đã ghi công đầu trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc.
Hai Bà sinh ra trong một gia đình dòng dõi các Vua Hùng, cha là ông Trưng Định (Hùng Định), một hiền sĩ, văn võ toàn tài, được cử làm quan lạc tướng đất Mê Linh. Khi ông Trưng Định về đất Cổ Lai (nay là làng Hạ Lôi, xã Mê Linh) ẩn thân dạy học đã gặp bà Trần Thị Đoan, con gái cụ Trần Minh (cũng là cháu chắt bên ngoại của Vua Hùng, một gia đình phong lưu lệnh tộc cao môn), ông đã xin đính ước cầu hôn cùng bà.
Hai Bà đã ghi công đầu trong lịch sử đấu tranh giữ nước của dân tộc bằng cuộc khởi nghĩa Mê Linh mùa xuân năm 40 (Sau Công nguyên), đánh đuổi giặc Đông Hán ra khỏi bờ cõi nước ta, giành lại độc lập chủ quyền cho non sông đất nước, lập triều đại Trưng Vương tên nước Lĩnh Nam, đóng kinh đô tại Mê Linh.
Để tỏ lòng biết ơn công đức của Hai Bà Trưng, nhân dân nhiều nơi đã lập đền, miếu thờ phụng Hai Bà và các tướng của Hai Bà. Đền thờ Hai Bà ở thôn Hạ Lôi, xã Mê Linh, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội được toạ lạc trên một khu đất cao, rộng, thoáng giữa cánh đồng, nhìn ra đê sông Hồng. Trên cửa chính của Tam môn nội có bức hoành phi mang dòng chữ “Ly chiếu tứ phương” (ví Hai Bà như ánh sáng chiếu toả bốn phương). Theo thuyết phong thuỷ, khu đất này có hình dáng giống như hình của một con voi trắng đang uống nước (Bạch tượng yển hồ). Ban đầu ngôi đền được dựng bằng tre, lá. Đến triều Đinh (968 - 980), đền được xây lại bằng gạch. Đền đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo. Năm 1881-1889, đền được trùng tu lớn và đổi hướng lại ban đầu như hướng ngày nay
Đền được xây dựng theo kiểu kiến trúc tiền Nhất hậu Đinh, chữ Nhất là toà Tiền tế, chữ Đinh là toà Trung tế và Hậu cung. Xung quang là tường gạch, hai bên là Tả mạc và Hữu mạc bao lấy khu sân rộng. Hai cây muỗm bên hồ Bán Nguyệt cùng các cây cổ thụ khác trong khu nội vi đền toả bóng mát càng làm tôn thêm cho đền vẻ cổ kính, uy linh. Từ đền nhìn ra hướng Tây qua lạch vòi voi là Tam môn nội, cột đá thề, Tam môn ngoại và đường Kéo quân dấu tích một thời, hướng Nam có hồ Mắt Voi, hướng Bắc có hồ Tắm Voi. Trông lên toà Thượng điện, một không gian tĩnh lặng, thâm nghiêm. Những cột lim tròn, các đầu hồi bít đốc, đầu đao, mái cong cổ truyền và phần kiến trúc gỗ trong đền hợp nhất thành một thể thống nhất đầy sức sáng tạo mang tính biểu tượng cao. Đặt trước Trung tế là đôi rồng đá với nghệ thuật điêu khắc thời Lê, rất ít nơi có. Sự kết hợp đăng đối của ngôi đền khiến cho người viếng thăm, chiêm bái cảm nhận được sự tôn nghiêm, thành kính.
Trong đền còn lưu giữ được nhiều cổ vật quý: hai cỗ kiệu Bát Cống, Long Đình từ thế kỷ XVII, gươm trường, bát bửu, cửa võng, hương án, chuông đồng (đúc năm 1803), bia đá (khắc năm 1889) trùng tu cải chính hướng đền. Đặc biệt, trong Tiền tế và Hậu cung còn có nhiều hoành phi, câu đối mang ý nghĩa tự hào dân tộc ca ngợi công đức Hai Bà. Đó là bức hoành: Nam Quốc Sơn Hà và Hoàng Đế Từ.
Phía bên trái Tam toà chính điện có đền thờ thân phụ, thân mẫu ông Thi Sách và ông Thi Sách; đền thờ các nam tướng của triều Trưng; nhà bia ghi dấu tích hoạt động cách mạng của đồng chí Tổng Bí thư Trường Chinh (Hộp thư bí mật). Vào những năm 1943-1945, đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng đã lấy đền Hai Bà Trưng làm một trong những nơi hội họp bí mật để chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thủ đô Hà Nội ngày 19 tháng 8 năm 1945. Hiện nay, đền còn lưu giữ 23 đạo sắc phong của các triều đại phong kiến Việt Nam, sắc phong sớm nhất là từ đời Vua Lê Hiển Tông Niên hiệu Cảnh Hưng 44 (ngày 26 tháng 7 năm 1783) cho đến sắc phong triều Nguyễn năm Khải Định 9 (ngày 25 tháng 7 năm 1924) bao gồm sắc phong tôn hiệu cho Hai Bà và các sắc chỉ cho dân làng Hạ Lôi cùng các vùng lân cận phải chăm sóc, giữ gìn đền thờ Hai Bà Trưng.
Phía bên phải Tam toà chính điện là đền thờ thân phụ, thân mẫu, sư phụ, sư mẫu của Hai Bà Trưng; đền thờ các nữ tướng triều Trưng; miếu thờ thổ thần.
Đây là những kiến trúc bằng gỗ lim được chạm trổ những hoạ tiết sinh động và tinh tế. Tượng thờ, nội thất, hoành phi, câu đối được sơn son thếp vàng hài hoà, lộng lẫy, thâm nghiêm.
Phía trước chính điện là sân trên, sân trong, sân ngoài đều được lát bằng đá phiến. Sân trong còn gọi là sân nghi lễ, được lát đá theo hình chiếc chiếu hoa lớn ở giữa và hình chiếc chiếu hoa nhỏ ở hai bên để chồng kiệu và bài trí voi, ngựa, cờ sí… khi có lễ tiệc và tế lễ uy nghiêm. Hai bên trong là hai nhà Tả mạc và Hữu mạc bề thế, kết cấu đầu hồi, bít đốc và lầu chuông, gác trống.
Sân ngoài có kiến trúc hình “ngũ phúc” bởi ngọn đá thề giữa sân và bốn bồn hoa hình con dơi ở bốn góc sân đá. Lời thề của Hai Bà Trưng khi làm lễ tế cờ được khắc vào ngọn đá. 18 cỗ voi đá đặt ngay ngắn thành hai hàng bên sân đá hướng vào giữa sân, tượng trưng cho voi của 18 đời Vua Hùng. Hai bên của sân ngoài là khu vườn hoa cây cảnh, thảm cỏ, núi đá bon sai, cây bóng mát, đường dạo và khu trồng cây lưu niệm của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
Kết nối giữa sân nội và sân ngoại là Tam môn nội, đây là công trình kiến trúc có từ thời nhà Nguyễn (1889). Năm 2005, Tam môn nội được tu bổ lại với chất liệu gỗ lim, hệ thống cột to tròn nâng đỡ 4 mái và 4 đầu đao uốn cong mềm mại bởi những con kìm hoá rồng uyển chuyển.
Tam môn ngoại được dựng bằng những khối đá tạo nên tứ trụ vuông và hai mái cổng phụ, chạm trổ những đường nét, hoạ tiết hình những con giống trong “Tứ Linh”: Long, Ly, Quy, Phượng ở bốn mặt phía trên của cột đá. Ở mỗi mặt cột đá có khắc câu đối ngợi ca công đức của Hai Bà Trưng.
Đan xen trong khu nội vi còn có hồ Bán nguyệt, hồ Mắt Voi, lạch Vòi Voi, hồ Tắm Voi cũng được trùng tu. Đối xứng với hồ Tắm Voi có đồi đất cao trồng các cây gỗ quý, cây bóng mát, cùng với hệ thống đèn đá, đèn cao áp đặt khắp khu nội vi toả ánh sáng lung linh, huyền ảo vào ban đêm, khiến cho khu di tích trông như một cung điện tuyệt mỹ.
Hệ thống tường bao cùng Tam môn ngoại khép kín khu nội vi rộng 4ha. Khu ngoại vị rộng hơn 7ha là khu vực tái hiện không gian lịch sử diễn ra các trò chơi dân gian trong lễ hội như vật dân tộc, đu tiên, chọi gà, bịt mắt bắt dê, cờ bỏi, cờ người…
Điểm du lịch văn hóa tâm linh hấp dẫn
Từ bao đời nay, đền thờ Hai Bà Trưng đã trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của người dân Hạ Lôi và khách thập phương. Những khi vui, buồn, họ thường đến đây thổ lộ trước anh linh của Hai Bà với mọi lời thỉnh cầu để được linh ứng. Trong tâm thức của nhân dân, Hai Bà Trưng là hiển thánh của bách gia trăm họ. Với đức độ và tấm lòng trong sáng, Hai Bà đặt nợ nước lên trên thù nhà, tạm giấu khăn tang trước giờ ra trận để khỏi xúc động trước ba quân. Công lao to lớn của Hai Bà trong cuộc khởi nghĩa, giành độc lập dân tộc, không có lời nào để ca ngợi tuyệt đối, mà chỉ có lòng kính trọng: “Vua chị, Vua em hào kiệt thế gian khó sánh”.
Hàng năm, khu di tích đền Hai Bà Trưng Mê Linh mở hội chính từ ngày mồng 6 đến ngày mồng 10 tháng Giêng âm lịch, là ngày Hai Bà tế cờ khởi nghĩa. Đặc biệt cứ 5 năm một lần, vào dịp lễ hội mồng 6 tháng giêng âm lịch (với những năm có số cuối là 0 và 5), Mê Linh tổ chức rước kiệu Hai Bà Trưng, kiệu Thành hoàng làng Hạ Lôi và kiệu Thánh Cốt Tung là một danh tướng của Hùng Duệ Vương được thờ tại làng Hạ Lôi.
Di tích Hai Bà Trưng chứa đựng những giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa, khoa học, nghệ thuật, kiến trúc,.... Đây là nơi gắn bó mật thiết với đời sống cộng đồng trong sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng, thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn, tự hào dân tộc, sự cố kết cộng đồng… của cư dân Hạ Lôi. Di tích đã được Thủ tướng Chính phủ đã quyết định xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt (Quyết định số 2383/QĐ -TTg, ngày 09 tháng 12 năm 2013).