Một vài năm trở lại đây, đền Nguyệt Hồ được xem như một điểm nhấn tâm linh tín ngưỡng thu hút hàng ngàn lượt khách từ khắp các tỉnh, thành trong nước hành hương tìm về để xin lộc, cầu tài, cầu bình an trong cuộc sống.
Theo truyền thuyết được truyền lại, vùng Bo (Yên Thế) với sự tích chúa Nguyệt Hồ được ghi chép lại như sau: Cuối đời Hùng Duệ Vương, quân Thục ồ ạt mang quân sang xâm chiếm giang sơn họ Hùng. Hùng Duệ Vương bèn hạ chiếu đi các nơi tìm người tài giỏi để giúp vua trừ giặc. Lúc bấy giờ ở vùng Bo có ông Cao và ông Quý ra ứng tuyển và được vua chọn đi dẹp giặc. Bái tạ ơn vua, hai ông kéo quân về đây ngày đêm luyện tập binh mã chờ thời cơ diệt giặc. Khi quân Thục kéo sang, hai bên giao chiến ác liệt, thế giặc mạnh, quân ta yếu, hai ông Cao - Quý chỉ huy quân sĩ rút lui theo triền sông Thương rồi lựa thế đất hiểm trở quay lại giết giặc. Thuyền chiến dùng dằng chưa đi được vì các bà con gái lưu luyến yêu mến vùng đất này nên đã rời thuyền trở lại vùng Bo. Hai ông chỉ huy quân sĩ quay lại đánh giặc, bị bất ngờ phản công, quân Thục tự nhiên vỡ trận thua to, những kẻ tháo lui đều bị quân sĩ truy đuổi tiêu diệt hết. Thắng giặc, hai ông trở về khao thưởng quân sĩ rồi hồi triều báo công với vua.
Trước khi hồi triều, hai ông phi thẳng ngựa đến khu Rừng Từ để nhìn bao quát vùng Bo một lần nữa rồi bỗng nhiên hoá tại đó. Phu nhân và con gái biết tin nhớ thương nên cũng tự hóa theo, hôm đó vào ngày 15-2. Sau khi đánh thắng quân Thục, nhà vua phong cho các danh tướng là Thượng Đẳng Phúc Thần và truyền cho các địa phương, nơi các danh tướng đánh giặc, xây dựng đền miếu để thờ phụng mãi mãi. Triều vua Lê Đại Hành có sắc phong cho các vị thần ở vùng Bo là: "Cao Sơn Quý Minh đại đức hùng lược trác vĩ Đại Vương Thượng đẳng thần". Đến triều Nguyễn địa phương xây dựng miếu thờ ở Huyết Hồ, xin triều đình cho thờ nữ thần là Nguyệt Nga phu nhân và con gái của vị thần họ Cao. Triều vua Tự Đức năm thứ ba (1850) ban sắc phong cho Nguyệt Nga phu nhân và ban cho dân xã vùng Bo phụng thờ. Sau lại có sắc phong cho Nguyệt Nga công chúa. Đời vua Duy Tân năm thứ nhất (1907) cũng có sắc phong cho Nguyệt Nga phu nhân.
Đền bà chúa Nguyệt Hồ có lịch sử từ lâu đời, xưa ngôi đền có một cung đặt tượng thờ Nguyệt Nga công chúa và bài trí tượng thờ theo đạo thờ Mẫu. Qua thời gian, ngôi đền đã được nhân dân địa phương và các nhà hảo tâm công đức tu sửa tôn tạo nhiều lần.
Quần thể di tích hiện nay gồm các hạng mục công trình: Cổng đền, khu sân đền, hồ Nguyệt, khu đền chính gồm toà đại bái và hậu cung, kiến trúc theo lối cổ truyền thống.
Trong hậu cung đặt tượng bà chúa bản đền, chúa Nguyệt Hồ (tức Nguyệt Nga công chúa) và bài trí tượng thờ theo đạo thờ Mẫu gồm hàng Thánh Mẫu tới hàng Quan, hàng Chầu, ông Hoàng, các cô, cậu và Đức Thánh Trần. Hai cung ngoài toà đại bái cũng bài trí tượng thờ theo đạo thờ Mẫu.
Như vậy, theo bề dày lịch sử, đền Nguyệt Hồ đã được phủ lên nhiều lớp tín ngưỡng, ngoài thờ "Bà chúa Nguyệt Hồ - Chúa Bói", còn thờ "Tam toà Thánh Mẫu", thờ Cô, thờ Cậu, thờ Sơn Trang, thờ các ông Hoàng và đức Thánh Trần Triều...
Từ lâu đền Nguyệt Hồ đã được phủ lên một lớp tín ngưỡng "thờ Mẫu". Theo các nhà nghiên cứu thì tín ngưỡng thờ Mẫu vốn là tín ngưỡng của người Việt cổ có từ lâu đời và ngày càng phát triển.
Ngày lệ bà Chúa Nguyệt Hồ là ngày 15/2 âm lịch. Trong ngày lệ chính nhân dân vùng Bo rước kiệu từ đình Bố Hạ về đền Hạ, đền Trung và đền Thượng. Sau khi tế lễ tại đền Trung lại rước kiệu về đền Nguyệt Hồ.
Tại đây phần tế lễ chúa Nguỵêt Hồ được tiến hành với những nghi lễ độc đáo như lễ dâng văn chúa Nguyệt Hồ. Bài văn cúng dâng chúa Nguyệt Hồ được thể hiện qua hình thức hát văn. Người được chọn diễn xướng hát văn phải có giọng hát hay, đàn giỏi, gia đình không có tang bụi. Trong nghi thức thờ Mẫu ở đền bà chúa Nguyệt Hồ còn có lệ hầu bóng được diễn ra trong các dịp đầu năm và trong ngày lễ hội. Khách về lễ Mẫu và hầu bóng chủ yếu là khách thập phương từ Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Hà Nội....tụ hội về đây để được dâng văn hầu chúa Nguyệt Hồ.
Hội đền Nguyệt Hồ nằm trong không gian chung của tín ngưỡng thờ Mẫu theo tuyến hành lễ đền Nguyệt Hồ-đền Suối Mỡ-đền Bắc Lệ- đền Mỏ Ba-đền Thượng Đồng Đăng và cuối cùng xuôi về đền Bà chúa Kho-Bắc Ninh.