Tắm biển và ngắm cảnh quan Qui Nhơn, đi tham quan các di tích lịch sử của Bình Định, và thấy, vùng đất này có rất nhiều điều lý thú. Đất Chăm Pa xưa hiển hiện theo các vần thơ của Chế Lan Viên:
Đây, những cảnh thái bình trong Chiêm quốc
Những cô thôn vàng nhuộm nắng chiều tươi
Áo hồng nâu phủ phất xõa lời vui
Đây điện các huy hoàng trong ánh nắng
Những đền đài tuyệt mỹ dưới trời xanh...
Người ta nói, chính ba anh em Tây Sơn là những người khai sáng, phát triển, hoàn thiện các phái võ có từ lâu đời ở Bình Định. Tương truyền, Nguyễn Huệ sáng tạo Yến phi quyền, Độc lư thương và đưa nhạc trống vào khích lệ ba quân chiến đấu (Trống trận Quang Trung); Nguyễn Lữ sáng tạo Hùng kê quyền…
Khu thờ Tam kiệt: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ - rất khang trang. Tưởng nhớ người xưa, tỉnh Bình Định xây dựng quần thể di tích thờ anh em nhà Tây Sơn và Bảo tàng Quang Trung rất hoành tráng. Nơi thờ Tam kiệt ngay trên hai di tích là cây me cổ thụ và giếng nước xưa của gia đình nhà Tây Sơn. Nước giếng trong vắt ngọt lịm. Ai đến đây cũng lấy nước giếng mang về vì họ truyền nhau, nước giếng uống đến đâu mát lạnh đến đó và uống nước này sẽ có sức mạnh và may mắn.
Di tích còn đó, hồn người xưa phảng phất đâu đây. Trong không gian thoáng mát với nhiều cây xanh, người ta liên tưởng tới những anh hùng trong đoàn quân áo vải Tây Sơn như Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyến Lữ, Bùi thị Xuân, Trần Quang Diệu, Ngô văn Sở… từng đến đây luyện tập võ nghệ và đàm đạo việc quân.
Bảo tàng Quang Trung là một công trình uy nghi, tiền thân của nó là đền thờ vua Quang Trung xưa, sau được chọn xây dựng Bảo tàng năm 1977. Các nhân viên bảo tàng đã đi khắp đất nước để tìm những hiện vật liên quan tới nhà Tây Sơn và Nguyễn Huệ - Quang Trung mang về bảo tàng, vì thế Bảo tàng có rất nhiều hiện vật trưng bày. Những hiện vật như trống trận, cồng chiêng, ấn tín, 18 loại binh khí thô sơ… giúp nghĩa quân Tây Sơn giành nhiều chiến thắng lẫy lừng.
Trong những chiến công của nhà Tây Sơn, Nguyễn Huệ nổi lên là viên tướng tài, biết sử dụng quân nên hầu như đánh đâu thắng đấy. Những trận lừng danh, như trận chiếm lại Phú Yên từ tay nhà Nguyễn khi Nguyễn Huệ mới 23 tuổi, đánh Gia Định bắt hai chúa Nguyễn 1777, thắng Xiêm 1784, hạ thành Phú Xuân 1786, tiến đánh Thăng Long diệt tập đoàn Lê Trịnh 1786, thống nhất đất nước, tiêu diệt hơn 20 vạn quân Thanh 1789, kết thúc bằng trận Ngọc Hồi, Đống Đa Hà Nội…
Nguyễn Huệ được tôn vinh là một thiên tài quân sự. Nguyễn Huệ được các giáo sĩ phương Tây so sánh với Alexandros Đại đế và Attila.
Chính sử của nhà Nguyễn phải thừa nhận”… quân Xiêm (từ sau khi thua trận Rạch Ngầm - Xoài Mút) tuy ngoài miệng thì nói khoác nhưng trong bụng thì sợ Nguyễn Huệ như sợ cọp”.
Nguyễn Huệ không chỉ giỏi cầm quân mà ông còn sử dụng, phối hợp các loại vũ khí, phương tiện quân sự mới ở thời kỳ ấy để chiến thắng đối thủ.
Trong bảo tàng Quang Trung còn lưu lại nhiều loại vũ khí nhà Tây Sơn dùng trong các trận đánh.
Đánh cho để tóc dài
Sau khi đại phá quân Thanh, đuổi vua Lê Chiêu Thống ra khỏi nước Nam, Quang Trung thực thi hòa giải với nhà Thanh và triều cống khiến vua Thanh chấp nhận Tây Sơn thay thế nhà Lê. Cách trừ phản loạn của ông cũng rất khôn khéo khiến cho tướng lĩnh khâm phục (như diệt Nguyễn Hữu Chỉnh và Vũ Văn Nhậm khi hai ông này định cát cứ, xưng hùng).
Nhờ thực tâm cầu hiền tài để giữ non sông đất nước, Quang Trung vừa khiêm tốn vừa hiểu rõ sức mạnh của các bậc hiền tài khi họ giúp vua cai trị nên Chiều Cầu hiền của ông đã được các cựu hiền nhà Lê cũ như tiến sĩ Đoàn Nguyễn Tuấn, Vũ Huy Tấn, Bùi Dương Lịch, Nguyễn Thiếp… hưởng ứng, ra trợ giúp.
Bất ư Đường Tống thuyết anh hùng.
Nhà sử học Trần Trọng Kim viết, vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra đất Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhậm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng nhất là đối với một nhân sĩ như Nguyễn Thiếp (La Sơn Phu Tử) thì thật khác thường.
Trong tác phẩm “Bút ký lịch sử về dân tộc An nam” Legrand de la Liraye viết, ông không chỉ là nhà cầm quân mà còn là nhà cai trị rất giỏi… Đồn binh vững vàng khắp đường sông, cửa biển; kỷ luật nghiêm minh, đồng thời lại rất nhân từ với nhân dân…
Tất cả đều nhận định, cách cai trị của Quang Trung là dựa vào dân, dựa vào các sĩ phu, nhân sĩ, nghĩa là những người tài, có học, có đức mới có thể cai trị được đất nước. Về kinh tế ông chủ trương phát triển thương nghiệp, buôn bán, không “trọng nông ức thương” giảm thuế cho dân mới cường sức dân, đưa đất nước đi lên.
Trên đường về Qui Nhơn, chúng tôi còn đến thăm Đàn Tế trời ở núi Ấn Sơn thuộc thôn Hòa Sơn, xã Bình Tường, huyện Tây Sơn, được xây dựng từ tháng 11/2011. Tương truyền, nơi đây anh nhà Tây Sơn đã lập đàn tế Trời Đất để nhận Ấn, Kiếm và cầu Trời đất phù hộ cho đại nghiệp thành công. Khu di tích này xây dựng rất hoành tráng. Từ trên đỉnh núi cao, lồng lộng gió trời có thể ngắm toàn cảnh Tây Sơn. Đàn Tế Trời Đất mà bất cứ Minh quân nào của đất Việt cũng thực hiện các nghi lễ khi làm việc lớn, như chuẩn bị xuất quân đánh tan kẻ thù xâm lược, cầu hiền tài, cầu Quốc thái dân an, thiên hạ thái bình… được xây dựng ở nhiều nơi nhưng không nơi nào hoành tráng như ở Tây Sơn - Bình Định.
Thăm Bình Định càng ngưỡng mộ Quang Trung, Ngôi sao băng chói ngời trong lịch sử chiến tranh chống xâm lược của đất Việt và đặt cơ sở xây dựng một đất nước yên bình.
Nếu Quang Trung không ra đi quá sớm, Việt Nam thời đó ắt hẳn phát triển, nước mạnh, dân yên. Vì, với những chính sách kinh tế, chính trị, quân sự, ngoại giao… tiến bộ của ông, nước Việt đã có thể thoát khỏi ách xâm lăng của đế quốc, thực dân giống như Nhật và Thái Lan, không bị đô hộ, giữ được độc lập tự chủ để có cơ hội phát triển.