Với tinh thần chủ động hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tham gia 7 điều ước quốc tế đa phương về quyền tác giả, quyền liên quan như: Công ước Berne về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật, có hiệu lực với Việt Nam từ 26-10-2004 (Công ước Berne); Công ước Geneva bảo hộ nhà sản xuất bản ghi âm chống lại việc sao chép không được phép bản ghi âm của họ, có hiệu lực với Việt Nam từ 6-7-2005 (Công ước Geneva); Công ước Brussels liên quan đến việc phân phối tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ tinh, có hiệu lực với Việt Nam từ 12-1-2006 (Công ước Brussels); Hiệp định về những khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, có hiệu lực với Việt Nam từ 11-1-2007 (Hiệp định TRIPs); Công ước Rome về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm và tổ chức phát sóng, có hiệu lực với Việt Nam từ 1-3-2007 (Công ước Rome); Hiệp ước WIPO về quyền tác giả (WCT), có hiệu lực với Việt Nam từ 17-2-2022; Hiệp ước WIPO về cuộc biểu diễn và bản ghi âm (WPPT), có hiệu lực với Việt Nam từ 1-7-2022.
Vấn đề quyền tác giả, quyền liên quan nói riêng, sở hữu trí tuệ nói chung đã và đang được đặt ra trong hầu hết các cuộc đàm phán Hiệp định Thương mại tự do (FTA), trong đó, có Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 14-1-2019, FTA giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu (EVFTA), có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 1-8-2020.
Luật Sở hữu trí tuệ được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua năm 2005, có hiệu lực từ 1-7-2006, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 và năm 2019. Sau hơn 16 năm thi hành, nội dung quyền tác giả, quyền liên quan trong Luật Sở hữu trí tuệ đã phát huy vai trò tạo hành lang pháp lý cho hoạt động sáng tạo, khai thác, sử dụng và thụ hưởng các tác phẩm, cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, thực thi pháp luật trong nước và hội nhập quốc tế.
Để thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước nhằm hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ; đảm bảo phù hợp với các văn bản trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là các quy định của Bộ luật dân sự, pháp luật chuyên ngành; đảm bảo thực hiện các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết, tham gia hoặc đang trong quá trình hoàn thiện các thủ tục để tham gia; đồng thời khắc phục những tồn tại, bất cập đặt ra trong quá trình thi hành Luật Sở hữu trí tuệ, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ,
Ngày 16-6-2022, tại Kỳ hợp thứ 3 Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ, Luật sửa đổi, bổ sung một số nội dung mới về quyền tác giả, quyền liên quan.
1. Quan điểm chỉ đạo trong quá trình xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung
Trong quá trình xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ (Dự án Luật), Ban Soạn thảo đã bám sát các quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng nội dung quyền tác giả, quyền liên quan trong Dự án Luật như sau:
Một là, thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về việc hoàn thiện thể chế về quyền tác giả, quyền liên quan.
Hai là, bảo đảm quyền công dân trong nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó; hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hóa, tham gia vào đời sống văn hóa; bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ theo quy định tại Hiến pháp 2013.
Ba là, kế thừa giá trị của các văn bản pháp luật đã có từ trước; bảo đảm hài hòa lợi ích giữa các chủ thể gồm người sáng tạo, bên sử dụng, công chúng thụ hưởng.
Bốn là, bảo vệ lợi ích quốc gia và tương thích với các điều ước quốc tế có nội dung về quyền tác giả, quyền liên quan mà Việt Nam là thành viên.
2. Các nhóm chính sách về quyền tác giả, quyền liên quan trong Luật sửa đổi, bổ sung
Dự án Luật tập trung vào 7 nhóm chính sách, đó là: Chính sách 1: Đảm bảo quy định rõ về tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người biểu diễn, chủ sở hữu quyền liên quan trong các trường hợp chuyển nhượng, chuyển giao quyền tác giả, quyền liên quan; Chính sách 2: Khuyến khích tạo ra, khai thác và phổ biến sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí được tạo ra từ ngân sách Nhà nước; Chính sách 3: Tạo thuận lợi cho quá trình thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan; Chính sách 4: Đảm bảo mức độ bảo hộ thỏa đáng và cân bằng trong bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ;Chính sách 5: Tăng cường hiệu quả hoạt động hỗ trợ về sở hữu trí tuệ; Chính sách 6: Nâng cao hiệu quả của hoạt động bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ; Chính sách 7: Bảo đảm thi hành đầy đủ và nghiêm túc các cam kết quốc tế của Việt Nam về bảo hộ sở hữu trí tuệ trong quá trình hội nhập. Các nội dung sửa đổi bổ sung về quyền tác giả, quyền liên quan thuộc 6 trong 7 nhóm chính sách trên.
Với mục tiêu đề ra trong việc sửa đổi Luật Sở hữu trí tuệ, bảo đảm chất lượng, thể chế hóa đầy đủ chủ trương của Đảng, phù hợp với các cam kết quốc tế theo Hiệp định CPTPP, Hiệp định EVFTA và các điều ước quốc tế khác có liên quan mà Việt Nam là thành viên, đáp ứng yêu cầu thực tiễn, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật, tính đồng bộ, khả thi, trong quá trình xây dựng, hoàn thiện Dự thảo Luật, các cơ quan soạn thảo đã phối hợp với cơ quan thẩm tra tăng cường khảo sát thực tiễn, tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm, lấy ý kiến các chuyên gia, nhà khoa học, nhà quản lý, đối tượng chịu sự tác động trực tiếp để có thêm thông tin, cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện Dự thảo Luật. Việc tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện Dự thảo Luật đã được tiến hành thận trọng, kỹ lưỡng trên cơ sở xem xét, đánh giá toàn diện tác động của chính sách, bám sát và kịp thời đáp ứng yêu cầu của thực tiễn phù hợp với quan điểm chỉ đạo là những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh; có sự thống nhất cao thì quy định trong Luật; những vấn đề mới, chưa được kiểm nghiệm hoặc cần có sự điều chỉnh linh hoạt để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội từng giai đoạn, trong Luật xác định một số nguyên tắc chung để giao quy định chi tiết. Với tinh thần đó, Luật sửa đổi, bổ sung 104 điều của Luật Sở hữu trí tuệ, trong đó, 12 điều chỉ sửa đổi, bổ sung về kỹ thuật, bãi bỏ một số quy định tại 5 điều. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giá, Luật Hải quan, Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Quản lý, sử dụng tài sản công để bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Với nội dung về quyền tác giả, quyền liên quan sửa đổi, bổ sung 31 điều, trong đó, sửa đổi 27 điều (4, 7, 19, 20, 21, 22, 25, 26, 28, 29, 30, 31, 32, 33, 35, 36, 41, 42, 43, 44, 47, 49, 50, 52, 55, 56, 198), bổ sung 5 điều (12a, 25a, 44a, 198a, 198b) với 5 nhóm nội dung sửa đổi, bổ sung về quyền tác giả, quyền liên quan.
3. Các nhóm nội dung sửa đổi, bổ sung quyền tác giả, quyền liên quan
Bám sát quan điểm chỉ đạo, các nhóm chính sách, Luật có 5 nhóm nội dung sửa đổi, bổ sung về quyền tác giả, quyền liên quan:
Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung nhóm quy định về quyền tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, quyền của người biểu diễn, quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, quyền của tổ chức phát sóng, chủ sở hữu quyền liên quan (19, 20, 21, 22, 29, 30, 31, 36, 41, 42, 43, 44).
Thứ hai, sửa đổi quy định về ngoại lệ quyền tác giả, ngoại lệ quyền liên quan, giới hạn quyền tác giả, giới hạn quyền liên quan và bổ sung trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật (điều 25, 32, 26, 33, 25a).
Thứ ba, sửa đổi, bổ sung quy định về tổ chức đại diện tập thể quyền tác giả, quyền liên quan phù hợp Bộ luật Dân sự và theo thông lệ quốc tế (điều 56).
Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định về đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan để thực hiện đăng ký trực tuyến theo cải cách thủ tục hành chính; quy định rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân khi thực hiện thủ tục đăng ký quyền tác giả, quyền liên quan (điều 49, 50, 52, 55).
Thứ năm, bổ sung các quy định về hành vi xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan trên môi trường số và quy định về thực thi trên môi trường số tại các điều 28, 35, 198, 198a, 198b.
4. Một số nội dung sửa đổi, bổ sung về quyền tác giả, quyền liên quan
Sửa đổi, bổ sung một số khoản của điều 4 (Giải thích từ ngữ): sửa đổi các từ ngữ “tác phẩm phái sinh”, “tác phẩm, bản ghi âm, ghi hình đã công bố”, “sao chép”, “phát song”; bổ sung các từ ngữ “tiền bản quyền”, “biện pháp công nghệ bảo vệ quyền”, “biện pháp công nghệ hữu hiệu”, “thông tin quản lý quyền” và “truyền đạt đến công chúng”.
Sửa đổi, bổ sung khoản 2 điều 7 (Giới hạn quyền Sở hữu trí tuệ): bổ sung quy định về thực hiện quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca.
Bổ sung điều 12a (tác giả, đồng tác giả): luật hóa quy định về tác giả, đồng tác giả, trường hợp không phải là tác giả, đồng tác giả; bổ sung quy định về thực hiện quyền nhân thân và quyền tài sản đối với tác phẩm có đồng tác giả.
Sửa đổi, bổ sung điều 19 (quyền nhân thân): sửa đổi quy định về quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm không cho người khác xuyên tạc; không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả; bổ sung quy định tác giả có quyền chuyển quyền sử dụng quyền đặt tên tác phẩm cho tổ chức, cá nhân nhận chuyển giao quyền tài sản đối với tác phẩm đó.
Sửa đổi, bổ sung điều 20 (quyền tài sản): làm rõ nội dung các quyền làm tác phẩm phái sinh, quyền biểu diễn, quyền sao chép, quyền phân phối, nhập khẩu để phân phối, quyền phát sóng, truyền đạt đến công chúng, quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính; bổ sung quy định về các trường hợp mà chủ sở hữu quyền tác giả không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện.
Sửa đổi, bổ sung điều 21 (quyền tác giả đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu): quy định rõ từng nhóm người tham gia sáng tạo được hưởng các quyền tương ứng với sự đóng góp của họ trong việc sáng tạo tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu; luật hóa quy định về thỏa thuận việc đặt tên, sửa chữa tác phẩm; bổ sung quy định về quyền tác giả trong trường hợp kịch bản, tác phẩm văn học, tác phẩm âm nhạc trong tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được sử dụng độc lập.
Sửa đổi, bổ sung khoản 1 điều 22 (quyền tác giả đối với chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu): để đáp ứng sự phát triển công nghệ hiện nay, mở rộng phạm vi “chương trình máy tính” đối với thiết bị được vận hành bằng ngôn ngữ lập trình có khả năng làm cho máy tính hoặc thiết bị thực hiện được công việc hoặc đạt được kết quả cụ thể; luật hóa quy định thỏa thuận bằng văn bản về việc sửa chữa, nâng cấp chương trình máy tính và quy định về trường hợp, điều kiện để tổ chức, cá nhân có thể làm một bản sao dự phòng chương trình máy tính.
Sửa đổi, bổ sung điều 25 (bao gồm cả sửa đổi tên điều 25 thành “Các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả”): sửa đổi, bổ sung một số quy định về sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền bản quyền trong các hoạt động nghiên cứu khoa học, học tập, giảng dạy, thông tin báo chí, hoạt động công vụ, trong thư viện...
Bổ sung điều 25a (các trường hợp ngoại lệ không xâm phạm quyền tác giả dành cho người khuyết tật): chuẩn bị cho việc Việt Nam gia nhập Hiệp ước Marrakesh về tạo điều kiện cho người khiếm thị, người khuyết tật về thị giác và người khuyết tật khác không có khả năng đọc tiếp cận với các tác phẩm đã công bố, bổ sung quy định ngoại lệ quyền tác giả đối với người khuyết tật, người nuôi dưỡng, chăm sóc cho người khuyết tật, tổ chức đáp ứng điều kiện theo quy định của Chính phủ được thực hiện sao chép, phân phối, biểu diễn, truyền đạt tác phẩm xuyên biên giới dưới định dạng bản sao dễ tiếp cận.
Sửa đổi, bổ sung điều 26 (bao gồm cả sửa đổi tên điều 26 thành “Giới hạn quyền tác giả”): chuyển quy định hiện hành về việc sử dụng tác phẩm được định hình trên bản ghi âm, ghi hình đã công bố nhằm mục đích thương mại trong hoạt động kinh doanh, thương mại tại khoản 2 điều 33 về điểm b khoản 1 điều 22; bổ sung trường hợp hưởng ưu đãi đối với quyền dịch, sao chép tác phẩm theo Phụ lục Công ước Berne; bổ sung trường hợp khai thác, sử dụng tác phẩm không thể tìm được hoặc không xác định được chủ sở hữu quyền.
Sửa đổi, bổ sung điều 28 (hành vi xâm phạm quyền tác giả): sửa đổi, bổ sung quy định hành vi xâm phạm theo các quyền quy định tại các điều 19, 20, 25, 26 của Luật này và các hành vi xâm phạm khác liên quan tới biện pháp công nghệ bảo vệ quyền, thông tin quản lý quyền, trách nhiệm của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trung gian...
Sửa đổi, bổ sung điều 29 (quyền của người biểu diễn): tương tự điều 19, 20, sửa đổi quy định người biểu diễn có các quyền nhân thân và quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn; sửa đổi quy định về quyền bảo vệ sự toàn vẹn của hình tượng biểu diễn không cho người khác xuyên tạc, không cho người khác sửa đổi, cắt xén tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của người biểu diễn; làm rõ nội dung các quyền tài sản bao gồm quyền sao chép, quyền phát sóng, truyền đạt đến công chúng, quyền phân phối, nhập khẩu để phân phối, quyền cho thuê thương mại; bổ sung quy định về các trường hợp mà chủ sở hữu quyền đối với cuộc biểu diễn không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện.
Sửa đổi, bổ sung điều 30 (quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình): tương tự điều 20, làm rõ nội dung các quyền của nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình bao gồm quyền sao chép, quyền phân phối, nhập khẩu để phân phối, quyền cho thuê thương mại, quyền phát sóng, truyền đạt đến công chúng; bổ sung quy định về các trường hợp mà chủ sở hữu quyền đối với bản ghi âm, ghi hình không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện.
Sửa đổi, bổ sung điều 31 (quyền của tổ chức phát sóng): tương tự điều 20, làm rõ nội dung các quyền của tổ chức phát sóng bao gồm quyền sao chép, quyền phân phối, nhập khẩu để phân phối; bổ sung quy định về các trường hợp mà chủ sở hữu quyền đối với chương trình phát sóng không có quyền ngăn cấm tổ chức, cá nhân khác thực hiện.