Cuốn “Quảng Bình địa dư tiện đọc” của tác giả Trần Kinh. Ông Trần Kinh nguyên là Đốc học tỉnh Quảng Bình. Là người am hiểu về địa phương và có tài làm thơ nên ông đã soạn ra cuốn Quảng Bình địa dư tiện đọc để phổ biến cho mọi người cùng biết khái quát nhất về vùng đất tỉnh Quảng Bình.

Đây là cuốn địa chí sơ khai bằng thơ được phát hiện lần đầu tiên ở vùng đất Quảng Bình. Cuốn sách được bắt đầu làm từ cuối năm 1923, đến cuối năm 1925 hoàn thành, năm 1926 xuất bản. Cuốn sách dùng lối thơ lục bát diễn tả, để mọi người dễ đọc, dễ nhớ và dễ thuộc. Nội dung bao gồm các phần như: Địa thế, giới hạn; sông - biển; núi đồi; nhân vật; cổ tích; kỹ nghệ; chính trị; nhân vật lịch sử… tất cả được tóm lược bằng những câu thơ lục bát.
Để độc giả tiện theo dõi, Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển đăng lại toàn văn những nội dung cơ bản của tác phẩm này.
Địa thế - giới hạn
Trung kỳ mười bốn tỉnh thành
Nhìn trong đồ bản Quảng Bình có tên
Bắc, Nam thông một đường liền
Bề dài tính được trăm nghìn thước tây
Lại xem tứ chí cho hay
Bể giăng một mặt, núi vây ba bề
Bắc giáp Kỳ Anh, Hương Khê
Thuộc về Hà Tĩnh, dựa kề Hoành San (sơn)
Tây giáp dãy núi Giăng Màn
Nam giáp Quảng Trị, Đông gần bể Thanh
Tính theo diện tích cho rành
Địa phương phỏng quá năm nghìn mẫu tây
Núi
Quảng Bình nhiều đỉnh cao san
Phía Tây một dãy Giăng Màn xanh xanh
Hoành Sơn giống bức trường thành
Phân cách Hà Tĩnh, Quảng Bình làm đôi
Tuyên Hóa, Quảng Trạch nhiều đồi
Núi Hòn, Lèn Bắc, Đầu Voi, Đại Dù
Bố Trạch về miền thượng du
Đinh Công là một núi to nhưng là
Quảng Ninh, Lệ Thủy phương xa
Kê Quan, An Mã, cũng là Đầu Mâu
Bờ bể - Sông
Lại xem bờ bể đâu đâu
Cũng là cát trắng một màu dài ghê
Từ trên ngọn núi chảy về
Trổ ra cửa bể, sông chia năm dòng
Sông Ròn, sông Giang hai sông
Lý Hòa, Nhật Lệ lại cùng sông Dinh
Tựu trung chỉ một sông Gianh
Là sông lớn nhất ở trong tỉnh mình
Khí hậu
Đã hay sơn thủy hữu tình
Lại xem khí hậu cho minh thiên thời
Thử độ thường tới ba mươi
Hàn độ cũng tới hai mươi là thường
Một năm mười hai tháng trường
Gió thường thay đổi khác phương thế nầy:
Tháng năm đến tháng mười tây
Chỉ một luồng gió thổi hoài phía Nam
Tháng mười một đến tháng năm
Thì là gió Bấc, hay làm mưa to
Thổ sản
Lại xem thổ sản các đồ
Tỉnh nầy cũng chẳng kém thua tỉnh nào
Vì rằng: các mỏ chưa đào
Cho nên khoáng sản chưa thao lợi quyền
Còn nhiều sản lợi thiên nhiên
Săng súc, gỗ ván về miền sơn lâm
Trắc, mun, gõ, dẻ và lim
Đạ hương, hoa mộc, hoàng tâm, kền kền
Quảng Bình ít chỗ phì điền
Bình nguyên lại hẹp cho nên dân nghèo
Thượng du lắm chỗ tiêu điều
Tuyên Hóa, Bố Trạch phần nhiều điêu hao
Quảng Ninh, Lệ Thủy lúa nhiều
Đồng sâu, ruộng tốt, dân giàu mấy lâu
Lại còn các thứ hoa màu
Sắn khoai ngô đậu đâu đâu cũng trồng
Bố Trạch thuốc, Quảng Trạch bông
Ở huyện Tuyên Hóa nhiều đồng ruộng dâu
Bố Trạch trồng nhiều mía lau
Làm ra đường mật bán vào thương gia
Còn làng Cảnh Dương, Lý Hòa
So nghề ngư nghiệp lại là phần hơn
Mỹ Hòa, Đồng Hới, Lý Nhơn
Cũng một nghề ấy làm ăn sang giàu
Kỹ nghệ
Cất rượu có hai sở to
Ba Đồn, Mỹ Lược mở lò đã lâu
Nhiều làng theo việc tằm dâu
Làm tơ Hoàn Phúc, dệt thao Khương Hà
Võ Xá cũng dệt lụa là
Làm đồ phục dụng bán ra tỉnh ngoài
Cảnh Dương nước mắm tốt thay
Lý Hòa, Đồng Hới, cũng tày tiếng khen
Thợ mộc, thợ chạm chẳng hèn
Làm đồ đấu xảo tiếng truyền lương công
Nay nhờ quan Sứ có lòng
Lập ra sở Chạm ở trong tỉnh thành
Sở Tằm cũng mới lập thành
Tơ dệt tốt, kén lửa rành, dạy dân
Chánh trị
Bàn về chánh trị tỉnh mình
Đất chia phủ huyện, chính minh mọi đường
Lại chia ra tổng, ra làng
Đặt quan phân chức theo hàng tôn ty
Tỉnh có phiên niết hai ty
Quan thì Bố, Án thuộc chia Ty, Tào
Quan tây Công sứ quyền cao
Thay mặt bảo hộ, làm đầu các quan
Phủ huyện cũng đặt chính, ban
Tri phủ, Tri huyện cầm quyền trị dân
Tổng có Chánh, Phó tổng viên
Làng có Lý trưởng dự phần việc quan
Lại xem dân số cho tường
Biết mấy phủ huyện, mấy làng mới hay
Quảng Trạch năm tổng lớn thay
Chín mươi chín xã, dân mười hai nghìn
Quảng Ninh bảy tổng nhiều hơn
Chín mươi tám xã, dân hơn bảy nghìn
Lệ Thủy cũng bảy nghìn dân
Tổng chia làm bảy, làng gần bảy mươi
Bố Trạch có năm tổng thôi
Năm nghìn đinh số, sáu mười xã thôn
Tuyên Hóa năm tổng nhỏ hơn
Sáu mươi hai xã, một nghìn sáu dân
Tổng số phủ huyện có năm
Hai mươi chín tổng, ba trăm tám làng
Dân đinh cộng lấy số thường
Ba mươi nghìn lẻ, hiện đương bây giờ
Phong tục
Còn như phong tục tỉnh nhà
Cũng nên xem xét để mà cho hay
Dân thuần thói tốt vui vầy
Kiệm cần, kỹ lưỡng, chẳng hay nịnh tà
Giàu sang, nghèo khó các nhà
Duy trì giữ nết thật thà làm ăn
Trồng dâu, cày ruộng, đi săn
Làm rừng, bủa cá, nghề hằng giữ tay
Cách phục sức, việc đám chay
Bắc Nam Bố Chánh khác rày cả hai
Bắc thì tập tục đàng ngoài
Nam thì theo lối như người đàng trong
Tuyên Hóa rừng núi mênh mông
Dân cư xứ ấy thuộc dòng Man dân
Lời ăn giọng nói líu lăng
Còn nhiều hủ lậu chưa bằng Trung châu
Nhơn vật
Sơn kỳ thủy tú biết bao
Địa linh nhơn kiệt, ắt sao cũng nhiều
Phò Vua, giúp nước, việc Triều
Trải xem từ thuở danh phiêu muôn đời
Những ông võ tướng có tài
Hữu Dật, Hữu Cảnh, mới ai dám bì
Phúc Phấn là tướng Hùng phi
Đánh quân Trịnh Tạc một thì hiển danh
Còn về thế lộc công khanh
Xem trong thế hạt, xuất sanh cũng nhiều
Vân La, Trung Bính, Cổ Liêu
Kể qua cho biết bấy nhiêu xã làng
Lại là Hương hội khoa tràng
Sơn, Hà, Cảnh, Thổ, xưa thàng chiếm khôi
Văn minh gặp lúc thạnh thời
Cứ chăm học tập ắt rồi nên công
Đường sá
Rằng nay Nam Bắc giao thông
Lối đường đi lại, giao thông dễ dàng
Lục đạo đã có đường quan
Lại thêm đường sắt, sắp toan có chừ
Đường công, cùng với đường tư
Các đường trong tỉnh kể như sau này
Còn về thủy đạo đó đây
Sông Gianh, Nhật Lệ cũng tày thông thương
Lên nguồn xuống biển, tiện đường bán buôn
Cổ tích
Biết bao cổ tích thắng danh
Xem xét cho rõ, cho rành mới hay
Trấn Ninh tục gọi Lũy Thầy
Đào Công thuở trước đắp xây cao dày
Trường Dục cũng ở gần đây
Cũng điều thiên hiểm, cũng tày truyền ca
Lại thêm một lũy Phù Sa
Trên bờ sông Lệ trông xa dặm trường
Quảng Trạch có lũy Hoàn Vương
Kinh đô Lâm Ấp trị bình ngày xưa
Thành Lồi Ninh Viễn còn lưa
Ở gần Lệ Thủy nay chưa điêu tàn
Lại xem các cảnh chù hang
Phong Nha cốc tự rõ ràng cảnh tiên
Minh Cầm cũng cảnh tự nhiên
Có bàn Phật đá linh thiêng tục truyền./.