Trung tâm Phật giáo Đồng Dương qua mô hình phục chế của Henry Parmentier.
Kinh đô tráng lệ một thời
Làng Đồng Dương, nơi có phật viện Đồng Dương từ lâu đã được xem là kinh đô tráng lệ một thời của người Chăm. Đến với vùng đất “linh thiêng” này, chúng tôi không khỏi chạnh lòng khi dấu tịch còn lại của Phật viện là ngọn Tháp Sáng đang được chèo chống bằng những thanh sắt thô sơ. Khi được hỏi nguyên nhân ông Trà Tấn Túc Chủ tịch UBND xã chép miệng “trải qua thời gian cùng với sự tàn phá của chiến tranh cộng với sự can thiệp của người dân nên nó đang xuống cấp”.
Theo sử sách ghi lại, Phật viện Đồng Dương là một trong những trung tâm phật giáo nổi tiếng nhất không chỉ ở Vương quốc Chăm pa cổ mà cả khu vực Đông Nam Á. Phật viện được tọa lạc trên một cánh đồng mà người dân khu vực thường gọi là “cánh đồng thiêng” bởi nơi đây đang ẩn chứa nhiều điều huyền bí. Từ những dấu tích còn lại, đặc biệt là những tự trên tấm bia đá, các nhà nghiên cứu cho rằng phật viện Đông Dương được xây dựng vào thế kỷ thứ 9, đây là thời kỳ vàng son nhất của triều đại vua Indravaman II. Theo đó, năm 875 vua Indravanman II đã cho xây dựng một tu viện phật giáo và các đền thờ vị Bồ tát bảo hộ cho vương triều Laskmindra Lokescara Svabhyada.
Năm 1901, L.Finot, một học giả người Pháp đã công bố việc phát hiện 229 cổ vật ở làng Đông Dương, trong đó có một tượng Phật bằng đồng cao 108 cm (hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng lịch sử TP. Hồ Chí Minh), một tượng Phật đứng trên tòa sen, Phật mặc áo ca sa để hở bên vai phải, các nếp áp uốn cong xếp theo hình luống cày, 2 mặt tay đưa lên phía trước. Và một năm sau đó nhà nghiên cứu H.Parmentier cũng đã tiến hành khai quật với quy mô lớn. Những gì đã khai quật được đã mở tung những màn bí mật về một Phật học diện (Vihara) mà từ lâu đã được cổ sử Trung Hoa, Đại Việt và Chămpa nhắc đến một cách trân trọng... Theo mô tả của H. parmentier tòa bộ khu đền chính và các tháp nằm lân cận phân bố trên trục từ Tây sang Đông, dài khoảng một 1.300m.
Tiếc rằng, kinh đô tráng lệ một thời hiện nay đang dần trở thành phế tích. Những gì còn lại là những dấu tích vụn vỡ do sự tàn phá của thiên tai địch họa xảy ra liên miên ở vùng đất này. Theo như các bậc cao niên trong làng kể lại: Trước những năm 1970, những ngọn tháp khi đó vẫn còn tương đối nguyên vẹn. Nhưng đến khi bọn Mỹ ngụy phát hiện đươc khu này là nơi làm căn cứ của cách mạng ta nên chúng đã dùng đến xe tăng, bọc thép, bom đánh phá cả ngày đêm hòng xóa sạch làng này.
Ông Trà Tấn Huệ là một nhân chứng sống của tộc Trà.
Tượng Phật Bồ Tát Tara (Laksmindra - Lokesvara) bằng đồng đỉnh cao của nền nghệ thuật Đông Nam Á.
Còn theo ông Trà Tấn Huệ thì phật viện được giữ gìn đến ngày nay một phần nhờ thế hệ con cháu được dạy dỗ tốt. Khi những người già trong làng thường dặn dò con cháu mình mỗi khi ghé phật viện chơi cũng không được, bẻ cây, hái quả. Tuyệt đối không được trèo lên tượng hay tháp cổ. Nếu làm trái thì sẽ bị thần linh quở máng. Khi chúng tôi hỏi về vấn đề này, ông Trà Tấn Túc, Chủ tịch UBND xã Bình Định Bắc thừa nhận: “Hiện nay, dù phật viện chỉ còn là một đống hoang phế, nhưng người dân vẫn tin vào sự linh thiêng của phật viện”. Bởi nếu không phải con cháu tộc Trà vào phật viện cắt cỏ cho trâu bò thì chúng cũng không ăn được. Bởi những người dân tộc Trà ở Đông Dương còn giữ được hiện nay đó là ý thức tự giác dòng tộc, là những bức tượng Chăm kiêu sa lộng lẫy, là Tháp sáng huy hoàng tráng lễ một thủa.
Lý giải về việc chỉ có duy nhất tộc Trà sinh sống ở Đồng Dương mà không có những tộc Ung, Ma, Chế như các làng Chăm khác, Nhà nghiên cứu văn hóa - TS.Nguyễn Xuân Hương cho biết: “Hiện nay, làng Đồng Dương là nơi có người Chăm cư ngụ nhiều nhất ở Quảng Nam. Tộc Trà ở đây được hình thành từ rất lâu, cùng với sự hưng thịnh của Phật giáo ở khu đền tháp Đồng Dương (IX - XV), nên trong “vùng đất thiêng” này, có một sự tách biệt về sinh hoạt đời sống với các làng xã khác, cộng với tính tự trị làng xã của nền nông nghiệp lúa nước dẫn đến việc người Chăm ở tộc khác “không được phép” sinh sống ở đây”.