Thanh Chương

Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo trong Người Thầy của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh

07/08/2025 08:48

Theo dõi trên

Người Thầy (NXB Quân đội Nhân dân, 2023) là tác phẩm văn học đầu tay của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh – nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Tình báo Quốc phòng, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.

Cuốn sách dày gần 500 trang, viết dưới hình thức truyện kể chương hồi hiện đại, tái hiện sinh động chân dung Thiếu tướng Đặng Trần Đức (bí danh Ba Quốc) – một huyền thoại của tình báo quốc phòng Việt Nam. Tác phẩm được chấp bút từ góc nhìn ngôi kể thứ nhất (“tôi”) của chính Nguyễn Chí Vịnh – người học trò gần gũi và xuất sắc nhất của ông Ba Quốc. Với lợi thế “người trong cuộc” am hiểu sâu sắc nghề tình báo và quan hệ thầy trò thân thiết với nhân vật, tác giả đã tìm ra cách tiếp cận mới để xử lý khối tư liệu khổng lồ một cách tinh tế mà vẫn hấp dẫn người đọc. Kết quả là Người Thầy có sức lôi cuốn đặc biệt, “đọc một mạch” nhờ vô vàn chi tiết chân thực, bất ngờ, những tình huống gay cấn đến nghẹt thở mà nhiều tiểu thuyết trinh thám hư cấu khó sánh được. Qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, tác phẩm làm nổi bật hàng loạt nội dung tư tưởng và giá trị nhân văn, lịch sử sâu sắc. Bài phê bình này sẽ phân tích chi tiết cách Nguyễn Chí Vịnh tổ chức các sự kiện, không gian, thời gian và nhân vật trong Người Thầy – từ những nhiệm vụ tối mật lần đầu được kể, chân dung “người tình báo trắng hồ sơ” 21 năm ẩn mình, đến bài học về sự trong sạch trung hậu giữa thời hoài nghi, và bức tranh ký ức trải dài từ chiến trường Campuchia đến hành lang Dinh Độc Lập – nhằm toát lên chủ đề của tác phẩm. 

danh-hoa-1754531242.jpg

Nhiệm vụ tối mật lần đầu được kể: cao trào kịch tính và tính chân thực

Một trong những điểm hấp dẫn của Người Thầy là lần đầu tiên nhiều điệp vụ tối mật của tình báo Việt Nam được tiết lộ, dưới dạng những mẩu chuyện kịch tính như trong phim nhưng hoàn toàn có thật. Tiêu biểu là sự kiện giải cứu ông Nguyễn Văn Linh – nguyên Tổng Bí thư và từng là Bí thư Khu ủy Sài Gòn-Gia Định trong kháng chiến. Trong sách, Nguyễn Chí Vịnh thuật lại phi vụ năm 1957 khi mạng lưới tình báo Sài Gòn phát hiện nơi ẩn náu của ông Nguyễn Văn Linh cùng 9 cán bộ đặc khu ủy Sài Gòn-Gia Định và chuẩn bị cất lưới bắt trọn. Điệp viên Ba Quốc lúc đó đã thâm nhập Sở Nghiên cứu Chính trị xã hội (cơ quan mật vụ của chính quyền Ngô Đình Diệm) và vô tình được giao chỉ huy chuyên án truy quét đặc khu ủy. Ở tình thế “trớ trêu” này, ông vừa phải hoàn thành nhiệm vụ do địch giao, vừa tìm cách cứu nguy đồng đội của mình. Tình huống truyện được Nguyễn Chí Vịnh xây dựng đầy gay cấn: Ba Quốc hoạt động “đơn thương độc mã”, dưới sự giám sát chặt chẽ của cố vấn Ngô Đình Nhu, nên không thể bí mật báo tin cho tổ chức. Mỗi ngày, ông đều phải nộp báo cáo chi tiết về di biến động của từng cán bộ đặc khu ủy cho cấp trên phía địch, trong khi bên trong luôn thấp thỏm tìm kế thoát hiểm cho họ. Cao trào được đẩy lên khi một sự cố nguy hiểm bất ngờ xảy ra, đòi hỏi ông vừa ứng biến nhanh nhạy để che mắt địch vừa giữ an toàn cho mục tiêu. Cuối cùng, điệp viên Ba Quốc đã xuất sắc “tháo ngòi” chuyên án bằng một kế mưu táo bạo, cứu ông Nguyễn Văn Linh và các đồng chí thoát khỏi lưới mật vụ trong gang tấc. Đây là chiến công ông Ba Quốc tự nhận là nguy hiểm nhất trong cuộc đời hoạt động của mình. Nguyễn Chí Vịnh thuật lại sự kiện này với văn phong chân thực và hồi hộp, khiến độc giả như cùng trải qua những giờ phút “thập tử nhất sinh”. Đáng chú ý, câu chuyện được kể lần đầu công khai sau hàng chục năm nằm trong bóng tối – đến mức khi được tiết lộ, chính gia đình cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh ban đầu cũng không tin nổi, cho tới khi cơ quan tình báo xác nhận. Điều này cho thấy nỗ lực của tác giả trong việc giải mật lịch sử, đem đến cho người đọc những sự thật bất ngờ mà hoàn toàn có thật, tăng sức thuyết phục mạnh mẽ cho tác phẩm.

Bên cạnh đó, Người Thầy còn kể lại vụ điệp vụ ám sát Hoàng thân Norodom Sihanouk (Quốc vương Campuchia) và cách điệp viên Ba Quốc bí mật cứu ông thoát chết – một câu chuyện ly kỳ không kém phần phim ảnh. Vào cuối thập niên 1950, dưới áp lực Mỹ, cơ quan mật vụ Sài Gòn đã lập kế hoạch ám sát Hoàng thân Sihanouk nhằm loại bỏ một nhà lãnh đạo có xu hướng trung lập với Việt Nam. Ba Quốc được cài vào nhóm chỉ huy kế hoạch này và cùng một phó giám đốc Sở Mật vụ cải trang sang Phnom Penh. Âm mưu được dàn dựng tinh vi: một món quà chứa bom hẹn giờ sẽ được trao tận tay Sihanouk bởi người thân tín, nhằm kích nổ đúng lúc ông mở quà. Trong tình huống “tiến thoái lưỡng nan” ấy, Ba Quốc đứng trước lựa chọn sinh tử: nếu phá kế hoạch, ông sẽ bại lộ; nếu tiếp tục, một vị quốc vương có thiện cảm với cách mạng Việt Nam sẽ bị sát hại. Nguyễn Chí Vịnh miêu tả sự đấu tranh nội tâm ấy qua từng trang hồi ức sống động của người thầy: ông Ba Quốc dò đọc báo chí Hà Nội để đoán lập trường của Trung ương về vấn đề Sihanouk vì chưa nhận được chỉ thị trực tiếp, và cuối cùng quyết định “tùy cơ ứng biến” hòng vừa bảo toàn vỏ bọc, vừa cứu Sihanouk. Cao trào của truyện được đẩy lên đến đỉnh điểm khi âm mưu ám sát diễn ra đúng kịch bản – chiếc hộp quà phát nổ ngay thời điểm dự tính. Nhưng nhờ một chi tiết nhỏ đầy trí tuệ: Ba Quốc đã âm thầm chỉnh lệch giờ kíp nổ của quả bom, nên nó không trúng đích. Sihanouk thoát hiểm trong gang tấc, còn kẻ đồng mưu chính thì bị bắt giữ tại chỗ. Cách sắp đặt tình huống này thể hiện bút pháp thắt nút và mở nút khéo léo: tác giả dựng nên một không khí nghẹt thở, những tưởng bi kịch sắp xảy ra, để rồi bất ngờ “cởi nút” bằng hành động thầm lặng nhưng quyết định của nhân vật chính. Mặc dù sự kiện diễn ra từ lâu, Người Thầy thuật lại như một truyện trinh thám chân thật, không màu mè nhưng đầy lôi cuốn.. Quan trọng hơn, câu chuyện này chứa đựng tầm vóc lịch sử sâu sắc: chính sự bất thành của vụ ám sát -nhờ công Ba Quốc đã khiến Sihanouk chuyển hẳn sang ủng hộ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Giải phóng miền Nam, cho phép quân giải phóng sử dụng lãnh thổ Campuchia làm căn cứ hậu cần. Một tình huống truyện được kể sinh động đã gói trọn cả một bước ngoặt lịch sử của khu vực – đó chính là sức nặng mà nghệ thuật kể chuyện trong Người Thầy mang lại.

Không chỉ những điệp vụ trong chiến tranh, Người Thầy còn tái hiện tài tình các tình huống tình báo ở tầm chiến lược thời hậu chiến, điển hình là câu chuyện dự báo sự sụp đổ của Liên Xô. Vào cuối thập niên 1980, khi Liên Xô và khối Đông Âu bắt đầu rung chuyển bởi cải tổ, Đại tướng Lê Đức Anh -bí danh Sáu Nam, khi đó Bộ trưởng Quốc phòng đã trực tiếp đặt câu hỏi táo bạo: “Liệu Liên Xô có đứng vững không?”. Đây là vấn đề nhạy cảm mà “không ai dám hỏi, cũng chẳng ai dám trả lời, trừ ông Sáu Nam và trừ ông Ba Quốc”. Trong Người Thầy, Nguyễn Chí Vịnh thuật lại cuộc họp hệ trọng ấy với chi tiết sống động: một trung tá trẻ Nguyễn Chí Vịnh vừa đi tập huấn Liên Xô về báo cáo thực trạng tận mắt chứng kiến; tiếp đó tướng Sáu Nam quay sang hỏi ý kiến ông Ba Quốc – người trải qua mấy thập kỷ trận mạc và tình báo chiến lược. Ba Quốc nhận định dứt khoát rằng Liên Xô đang bất ổn nghiêm trọng, chắc chắn sẽ có biến động lớn, Mỹ và phương Tây sẽ can thiệp thúc đẩy quá trình này “Mỹ không làm gì thì không còn là Mỹ nữa” – ông đúc kết và ông dự báo sắp xảy ra đảo chính. Dự báo ấy nghe “động trời” vào thời điểm bấy giờ, nhưng rốt cuộc đã ứng nghiệm chính xác: hai năm sau, năm 1991, Liên Xô diễn ra liên tiếp hai cuộc đảo chính đúng như tiên liệu -một cuộc đảo chính và một phản đảo chính dẫn đến sự tan rã hoàn toàn của chế độ Xô-viết. Tình huống kể chuyện này tuy không gay cấn kiểu hành động, nhưng lại chứa đựng kịch tính trí tuệ hiếm có trong lịch sử: đó là sự nhạy bén tầm nhìn chiến lược của những nhà lãnh đạo và tình báo Việt Nam trước biến động khôn lường của cục diện thế giới. Nguyễn Chí Vịnh đã thành công khi chuyển tải được kịch tính ấy qua lời đối thoại và diễn biến tình huống rất đời và chân thực – người đọc như nghe thấy hơi thở hồi hộp trong phòng họp khi câu hỏi lớn được nêu ra, rồi vỡ oà cảm xúc khi lời giải đáp quả quyết của ông Ba Quốc phá tan bầu không khí im lặng nặng nề. Giá trị của đoạn truyện còn ở chỗ cho thấy vai trò thầm lặng nhưng to lớn của tình báo trong những quyết sách mang tầm quốc gia: nhờ dự đoán sớm của Ba Quốc, Bộ Quốc phòng và lãnh đạo Việt Nam kịp thời chuẩn bị đối sách, chủ động tự lực về vũ khí thay thế nguồn viện trợ từ Liên Xô, thậm chí bí mật chuyển một phần dự trữ vàng và ngoại tệ từ Đông Đức, Liên Xô về nước trước khi chế độ ở đó sụp đổ. Những chi tiết này được tác giả lồng ghép tự nhiên trong dòng hồi ức, tạo nên một tình huống truyện độc đáo: cao trào nằm ở tầm chính trị, chiến lược chứ không phải sinh tử cá nhân, nhưng vẫn gây ấn tượng mạnh bởi tính chân thực và ý nghĩa lịch sử sâu rộng.

Như vậy, qua việc khắc họa những điệp vụ tối mật lần đầu được kể lại – từ giải cứu Nguyễn Văn Linh, ngăn chặn ám sát Sihanouk đến dự báo Liên Xô sụp đổ – Nguyễn Chí Vịnh đã thể hiện nghệ thuật xây dựng tình huống truyện đặc sắc. Mỗi sự kiện đều có bố cục chặt chẽ với mở đầu, thắt nút và cao trào, rồi được “mở nút” một cách thuyết phục. Yếu tố kịch tính được khai thác tối đa nhưng không hề hư cấu vô căn cứ, mà dựa trên sự thật lịch sử phi thường. Sức hấp dẫn toát ra từ chính sự chân thực: nhiều tình huống “nghẹt thở” nhưng người đọc biết đó không phải chuyện bịa mà là chiến công thầm lặng mà hiển hách của tình báo Việt Nam. Điều này tạo nên cảm xúc ngưỡng mộ xen lẫn bàng hoàng, và càng làm nổi rõ chủ đề tư tưởng của tác phẩm: tôn vinh những cống hiến lặng thầm vì Tổ quốc và những bài học lịch sử quý giá cho thế hệ sau.

Chân dung người tình báo “trắng hồ sơ” và bản lĩnh 21 năm ẩn mình

Bên cạnh việc thuật lại các chiến công, Người Thầy tập trung khắc họa chân dung có một không hai của người tình báo “trắng hồ sơ” – tức một điệp viên hoạt động lâu dài trong lòng địch mà hồ sơ tuyệt đối trong sạch, không để lộ bất cứ dấu vết gì. Nhân vật trung tâm, Thiếu tướng Đặng Trần Đức -Ba Quốc, chính là một trường hợp như vậy: 21 năm trời sống giữa hàng ngũ đối phương mà “không ai biết ông là ai”, nhưng ông vẫn tuyệt đối trung thành với cách mạng cho đến ngày toàn thắng. Nguyễn Chí Vịnh đã xây dựng hình tượng này bằng loạt tình huống đời thường lẫn phi thường, qua đó tôn vinh phẩm chất kiên trung và đức hy sinh cao cả của người tình báo.

Trước hết, tác giả phác họa quá trình ông Ba Quốc thâm nhập ngày càng sâu vào bộ máy đối phương, leo lên những vị trí “chui sâu, leo cao” nhất mà một điệp viên từng đạt được. Từ cuối những năm 1950, Ba Quốc hoạt động dưới vỏ bọc công chức Sài Gòn với tên giả Nguyễn Văn Tá. Ông lần lượt được tuyển vào Sở Nghiên cứu Chính trị xã hội thuộc Phủ Tổng thống Ngô Đình Diệm, rồi trở thành sĩ quan tình báo tại Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo (cơ quan tình báo cao cấp nhất của chính quyền Sài Gòn). Thậm chí có thời điểm, ông giữ chức trợ lý Cục trưởng Cục Tình báo Quốc nội, tiếp cận hầu hết tài liệu tối mật của chế độ Việt Nam Cộng hòa. Để đạt được mức độ “thâm căn” ấy, hồ sơ của Ba Quốc phải hoàn toàn “trắng” – nghĩa là không một vết gợn nào khiến địch nghi ngờ. Người Thầy đã cho người đọc thấy những chiến thuật ẩn thân tinh vi: chẳng hạn Ba Quốc chấp nhận mang tiếng “phản bội” tổ chức khi cắt đứt liên lạc với mạng lưới cách mạng suốt một thời gian dài ,vì liên lạc viên bị bắt, ông buộc phải hoạt động đơn tuyến tuyệt đối để bảo toàn cả mình lẫn cơ sở. Trong một tình huống truyện đáng nhớ, ông được lệnh tránh xa một đồng chí tình báo khác (Phạm Xuân Ẩn) và thậm chí phải giả vờ ngờ vực người đồng đội này là CIA, để tránh nguy cơ lộ cả hai mạng lưới. Những chi tiết đó cho thấy người điệp viên đã hy sinh cả mối quan hệ cá nhân, cắt đứt liên hệ với đồng chí, tổ chức để giữ bằng được vỏ bọc an toàn. Cao trào cho cuộc đời ẩn mật 21 năm này đến vào năm 1974: trước nguy cơ bị lộ do một đầu mối bị bắt, ông Ba Quốc nhận lệnh rời Sài Gòn, thoát ly qua đường mòn Hồ Chí Minh để ra chiến khu. Sau hơn hai thập kỷ “đi không dấu, nấu không khói” nơi sào huyệt địch, cuối cùng ông đoàn tụ gia đình sau 21 năm cách biệt vì nhiệm vụ. Tác giả Nguyễn Chí Vịnh đã tái hiện khoảnh khắc đó với niềm xúc động lắng đọng: người chiến sĩ thầm lặng trở về với quê hương, với vợ con, mang theo bao vết thương tinh thần lẫn thể xác của những năm tháng đơn độc. Qua ngòi bút của ông, chân dung người tình báo “trắng hồ sơ” hiện lên vừa lẫm liệt, phi thường, vừa rất đỗi đời thường, con người.

Điểm nổi bật trong hình tượng Ba Quốc là lòng trung thành son sắt và nhân cách trong sạch giữa một môi trường đầy cám dỗ và nghi kỵ. Người Thầy dành nhiều trang khắc họa lối sống và đạo đức của ông trong thời gian ở “phủ chúa” Sài Gòn. Giữa chốn quyền lực và xa hoa, điệp viên Ba Quốc lại chọn lối sống khắc kỷ, giản dị đến khắc nghiệt. Tác giả kể rằng dưới vỏ bọc Nguyễn Văn Tá – một quan chức tình báo ngụy có lương cao – ông Ba Quốc không hề hưởng thụ như bao kẻ khác. Ông chia tiền lương của mình làm ba phần: một phần dành để học tiếng Anh (để phục vụ công việc thu thập tin tức từ người Mỹ), một phần gửi về cho vợ nuôi con, và phần còn lại dùng để mua tin chi trả cho mạng lưới cơ sở. Vì thế, ông sống thanh đạm đến mức đồng nghiệp gọi đùa là “Tá Bụt”, ý nói ông tu thân như một nhà tu hành. Người Thầy dẫn những chi tiết đời thường rất “đắt” để minh chứng cho đức tính trong sạch ấy: ví dụ, sau năm 1975, khi có điều kiện tiếp cận vật tư khan hiếm, ông Ba Quốc vẫn chỉ gửi về cho gia đình món quà nhỏ là vài lạng bột ngọt và mấy gói mì ăn liền – những thứ tự tay ông mua bằng tiền lương ít ỏi của mình. Đến mức một lần người nhà mang quà ông gửi ra Bắc đã bị công an hiểu lầm là hàng lậu vì không tin một vị tướng tình báo lừng danh lại chỉ gửi toàn những thứ tầm thường như vậy. Những tình tiết này, dưới ngòi bút dung dị của Nguyễn Chí Vịnh, đã làm không ít độc giả phải rơi nước mắt. Bởi lẽ, nó cho thấy sự hy sinh đến tận cùng: ông Ba Quốc chấp nhận thiếu thốn, kham khổ cho bản thân và cả gia đình suốt nhiều năm, quyết không lợi dụng vị trí để vụ lợi cá nhân dù hoàn cảnh đầy cám dỗ. Sự trong sạch ấy là nền tảng vững chắc của lòng trung thành – dù hoạt động đơn tuyến, không ai giám sát, ông vẫn kiên định lý tưởng, “yêu Tổ quốc thì sống chết với Tổ quốc” như lời ông từng dạy học trò. Trong một thời kỳ đầy hoài nghi và thử thách lòng người, đặc biệt giai đoạn sau 1975, khi xã hội có những biến động khiến lòng tin dao động, nhân vật Ba Quốc đã giữ trọn sự trung hậu, chính trực. Tác giả cho biết sinh thời ông Ba Quốc không muốn ai viết về mình, ông chỉ mong “những gì đã làm hãy khép lại và quên đi”.  Sự khiêm nhường tột bậc ấy càng tôn thêm phẩm chất cao quý của người anh hùng thầm lặng. Chính vì cảm phục đức hy sinh quên mình đó, Nguyễn Chí Vịnh – với tư cách người học trò – đã “tự dặn lòng sẽ điền vào chỗ trống” bằng cách viết nên cuốn sách này để hậu thế hiểu rõ một con người vĩ đại mà bình dị.

Xây dựng chân dung người tình báo “trắng hồ sơ” theo cách trên, Nguyễn Chí Vịnh đã tạo nên những tình huống truyện đậm chất nhân vật luận, nơi mỗi sự kiện, chi tiết nhỏ đều bật lên tính cách và phẩm chất của ông Ba Quốc. Từ cảnh ông lặng lẽ giả vờ cải đạo Thiên Chúa để được lòng cấp trên nhưng thực chất “chỉ để chờ móc nối liên lạc” với cách mạng, đến cảnh ông nghiêm khắc quở học trò phải cất hết quân phục, quân hàm khi sang chiến trường, để học cách ẩn mình và hòa đồng tuyệt đối) – tất cả đều góp phần vẽ nên một người thầy tình báo mưu trí, bản lĩnh phi thường mà cũng vô cùng giản dị, đời thường. Những mâu thuẫn nội tâm, chọn giữa nhiệm vụ với tình cảm cá nhân, giữa danh lợi trước mắt với lý tưởng được thể hiện khéo léo qua các tình huống thử thách liên tiếp, khiến chân dung nhân vật hiện lên sống động, chân thực và thuyết phục. Độc giả cảm nhận rõ ràng: để trở thành “con át chủ bài tình báo” với hồ sơ trắng tinh, Ba Quốc đã phải trả giá bằng biết bao mất mát thầm lặng của bản thân và gia đình. Điều đó càng làm sáng ngời bài học về lòng trung thành, sự trong sạch và kiên cường mà tác phẩm muốn truyền tải.

Bài học về sự trong sạch, trung hậu và bản lĩnh trong thời kỳ hoài nghi

Thông qua những tình huống và chân dung kể trên, Người Thầy gửi gắm đến người đọc nhiều bài học nhân sinh sâu sắc, đặc biệt là về đức tính trong sạch, trung hậu và bản lĩnh – những phẩm chất cốt lõi giúp con người đứng vững trong những thời kỳ đầy hoài nghi, biến động. Nguyễn Chí Vịnh không trực tiếp rao giảng, mà để chính câu chuyện cuộc đời ông Ba Quốc và thế hệ tình báo thời đại Hồ Chí Minh tự nói lên các giá trị đó, một cách thấm thía và tự nhiên.

Trước hết, bài học về sự trong sạch được thể hiện qua lối sống liêm khiết, “nén mình xuống, quên mình đi” của ông Ba Quốc và các đồng đội. Giữa một giai đoạn mà xã hội có thể xuất hiện những biểu hiện tiêu cực sau chiến tranh như chạy theo vật chất, lợi dụng chức quyền, hình ảnh người chiến sĩ tình báo thanh liêm đến khắc khổ trở thành một tấm gương lay động. Chính sự trong sạch tuyệt đối – không một vết nhơ trong hồ sơ, không một mảy may tư lợi – đã tạo nên uy tín đạo đức cho người tình báo, giúp họ vượt qua mọi cám dỗ cũng như nghi kỵ. Cuốn sách nhấn mạnh rằng đối với những người làm cách mạng chân chính như ông Ba Quốc, “nghề tình báo không phải là nghề kiếm danh lợi, mà là sự nghiệp cách mạng, phụng sự Tổ quốc”.  Bài học này rất ý nghĩa trong “thời kỳ hoài nghi” – khi niềm tin của một số người có thể lung lay trước khó khăn, thì tấm gương trong sạch của thế hệ đi trước chính là lời nhắc nhở mạnh mẽ về lý tưởng cao đẹp và lối sống thanh cao, giản dị.

Song hành với đó là bài học về lòng trung hậu – sự trung thành, tận tụy xuất phát từ tấm lòng chân thành. Cuộc đời ông Ba Quốc minh chứng rằng lòng trung thành với Tổ quốc và lý tưởng cách mạng không phải khẩu hiệu sáo rỗng, mà thể hiện qua những lựa chọn rất cụ thể: 21 năm đơn tuyến không một phút nao núng, hàng chục lần đối mặt sống chết không hề phản bội bí mật, và cả sau khi thành công cũng lặng lẽ rút lui vào bóng tối. Nhà báo Phùng Văn Khai khi đọc Người Thầy đã rút ra thông điệp rằng những người làm tình báo, làm cách mạng thời đó phụng sự Tổ quốc một cách cụ thể, bình dị, chứ không bằng những khẩu hiệu hoa mỹ. Thật vậy, chính những việc làm âm thầm như hy sinh đời tư, gia đình; gánh vác mọi nhiệm vụ lớn nhỏ với tinh thần “yêu cái gì thì sống chết với cái đó” hay việc ông Ba Quốc sẵn sàng nhận phần thiệt, thậm chí chịu hiểu lầm, miễn hoàn thành nhiệm vụ – tất cả cho thấy một lòng trung hậu son sắt. Bài học rút ra là: lòng trung thành thực sự nằm ở hành động, ở sự kiên định giữ vững lý tưởng ngay cả khi không ai nhìn thấy, ngay cả khi xung quanh đầy nghi ngờ thử thách. Trong thời hiện đại, khi niềm tin của giới trẻ đôi lúc dao động trước những vấn đề xã hội, câu chuyện ông Ba Quốc như một lời nhắn nhủ rằng: hãy trung thực và bền bỉ với điều đúng đắn, rồi thời gian sẽ minh chứng tất cả – giống như cuối cùng lịch sử đã tôn vinh thế hệ tình báo trung kiên ấy.

Cuối cùng, bản lĩnh là bài học xuyên suốt mà Người Thầy truyền tải, gắn liền với cả trong sạch và trung hậu. Bản lĩnh ở đây không chỉ là dũng cảm xông pha trận mạc, mà còn là tầm nhìn chiến lược, trí tuệ sắc sảo và ý chí kiên định. Cuốn sách cho thấy ông Ba Quốc và các đồng đội đã thể hiện bản lĩnh bằng cách dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trong hoàn cảnh hiểm nghèo. Chẳng hạn, việc dự báo Liên Xô sụp đổ đòi hỏi một bản lĩnh phi thường – dám nói lên sự thật khó chấp nhận và tham mưu quyết sách kịp thời. Bản lĩnh còn là khả năng nhận diện chiến lược: giữa muôn trùng thông tin, người tình báo phải nhìn ra đâu là mối đe dọa hay cơ hội sống còn cho đất nước (như khi ông Ba Quốc nhận định Khmer Đỏ coi Việt Nam là kẻ thù truyền kiếp, báo hiệu một cuộc chiến tất yếu vào cuối thập niên 1970. Thượng tá Phùng Văn Khai nhận xét Người Thầy đem đến bài học rằng “trong cuộc chiến cam go, sự nhận diện chiến lược để tham mưu cấp cao nhất là rất quan trọng – ta chỉ có vài người tình báo nhưng phải đối đầu với kẻ thù muôn vàn hiểm ác”. Bản lĩnh còn thể hiện ở tinh thần không lùi bước trước khó khăn: dù nhiệm vụ có cam go đến đâu xâm nhập hang ổ địch, xây dựng mạng lưới trong tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”..., người chiến sĩ tình báo vẫn vững vàng tìm cách hoàn thành. Nguyễn Chí Vịnh khắc họa điều này qua nhiều cảnh huống thử thách: khi trẻ, ông Ba Quốc từng bí mật hỗ trợ từ xa cho Vịnh trong một lần khai thác tù binh khó nhằn, để “thử lửa” nhưng đồng thời bảo vệ học trò khỏi hiểm nguy khôn lường – cho thấy bản lĩnh phải được rèn giũa và truyền lại qua các thế hệ. Đó cũng là lời nhắn nhủ của cuốn sách: bản lĩnh không tự nhiên mà có, nó được hun đúc từ lý tưởng và tôi luyện qua gian nan, và thế hệ đi trước chính là những người thầy truyền lửa bản lĩnh cho thế hệ sau.

Tóm lại, thông qua những tình huống truyện chân thực và cảm động, Người Thầy tỏa sáng những bài học nhân văn về phẩm chất con người. Tác phẩm ca ngợi sự trong sạch, trung hậu, bản lĩnh – không phải bằng lời lẽ giáo điều, mà bằng sức lay động của một câu chuyện cuộc đời. Giữa thời kỳ đầy hoài nghi, những giá trị bền vững ấy càng có ý nghĩa định hướng, khơi gợi niềm tin cho độc giả, đặc biệt là người trẻ. Đọc Người Thầy, ta không chỉ thấy một huyền thoại tình báo, mà còn thấy thấp thoáng những giá trị vĩnh cửu của dân tộc: lòng yêu nước, đức hy sinh, sự chính trực và trí tuệ Việt Nam trong gian khó.

Bức tranh ký ức tình báo từ chiến trường Campuchia đến hành lang Dinh Độc Lập

Người Thầy không chỉ kể câu chuyện của riêng ông Ba Quốc, mà còn vẽ nên bức tranh ký ức rộng lớn về ngành tình báo Việt Nam, trải dài qua nhiều không gian và thời gian lịch sử: từ những chiến trường ác liệt ở Campuchia đến hành lang quyền lực của Phủ Tổng thống Việt Nam Cộng hòa. Qua việc đan xen các bối cảnh và nhân vật đa dạng, tác phẩm đạt được tầm khái quát cao, đồng thời phản ánh chân thực tầm vóc lịch sử của sự nghiệp tình báo cách mạng.

Trước hết, bối cảnh chiến trường Campuchia cuối thập niên 1970 – 1980 được tái hiện sống động. Đây là thời kỳ bộ đội tình nguyện Việt Nam giúp nước bạn thoát khỏi chế độ diệt chủng Khmer Đỏ và đối đầu với chiến tranh biên giới Tây Nam. Ông Ba Quốc khi đó tiếp tục sự nghiệp tình báo, trực tiếp tham gia chỉ huy mạng lưới điệp báo tại chiến trường Campuchia. Người Thầy miêu tả những chiến công thầm lặng của tình báo Việt Nam trong giai đoạn này, như việc móc nối với tướng Heng Samrin -một chỉ huy Khmer Đỏ bất mãn để nắm bí mật kế hoạch của Pol Pot, giúp Bộ Chính trị Việt Nam nhận định đúng mối đe dọa và quyết định phản công kịp thời vào cuối năm 1978. Cũng tại đất Campuchia, Nguyễn Chí Vịnh khi là một sĩ quan trẻ đã được “thọ giáo” dưới quyền ông Ba Quốc – đây là giai đoạn tác giả vừa là nhân chứng vừa là nhân vật trong câu chuyện. Những trang sách về Campuchia vì thế vừa ngồn ngộn chất liệu lịch sử : trận mạc, điệp vụ, những lần phá vỡ mạng lưới gián điệp Pol Pot vừa thấm đẫm cảm xúc cá nhân tình thầy trò nơi đất khách, những bữa cơm chiều giữa rừng mà thầy Ba lặng lẽ kể chuyện đời cho trò Vịnh ngh. Bằng cách đó, tác phẩm dựng lên một bức tranh toàn cảnh về “10 năm ở Campuchia” – khắc họa chân thật những hi sinh, gian khổ của người lính tình báo trên chiến trường ngoại biên. Không gian chiến trường được mô tả với đủ sự hiểm nguy: có những chuyến công tác ngàn cân treo sợi tóc mà chính Nguyễn Chí Vịnh về sau nhớ lại vẫn “sởn da gà” trước tầm nhìn lo xa và quyết đoán của người thầy đã bảo vệ mình. Qua đó, người đọc hình dung rõ bộ mặt khốc liệt của nghề tình báo thời chiến: vừa phải đấu trí với địch, vừa đối mặt muôn vàn gian nan nơi chiến tuyến.

Ngược dòng thời gian, Người Thầy cũng đưa ta trở lại hành lang Phủ Tổng thống VNCH những năm trước 1975 – một mặt trận thầm lặng ngay giữa lòng đô thành Sài Gòn. Tại đây, ông Ba Quốc với vỏ bọc quan chức cao cấp đã hoạt động ngay sát bên các “ông trùm” chế độ cũ. Tác phẩm dành nhiều phần thuật lại không khí nơi sào huyệt địch: ví dụ cảnh ông Ba Quốc làm việc dưới trướng ông trùm mật vụ Trần Kim Tuyến thời Ngô Đình Diệm, hay giai đoạn ông là trợ lý cho Phó tổng giám đốc Phủ Đặc ủy Tình báo Sài Gòn thời Nguyễn Văn Thiệu. Những tình tiết như việc Ba Quốc phải vào quốc tịch đạo Thiên Chúa, gia nhập đảng Cần lao và tạo quan hệ thân tình với các quan chức Sài Gòn để được tin tưởng tuyệt đối đã tái hiện sinh động môi trường chính trị – xã hội của miền Nam dưới chế độ cũ. Qua đó, độc giả hiểu thêm rằng để cài cắm một điệp viên “trắng hồ sơ” ở tầng lớp cao nhất của địch là nhiệm vụ khó khăn nhường nào, đòi hỏi sự hy sinh và khéo léo tột bậc. Người Thầy cũng giúp người đọc “gặp gỡ” nhiều nhân vật lịch sử nổi tiếng từng hoạt động tình báo ngay trong lòng Sài Gòn: từ “ông cố vấn” Vũ Ngọc Nhạ (Hai Nhạ), nhà báo – điệp viên Phạm Xuân Ẩn -Hai Trung, đến cụm trưởng J22 Nguyễn Văn Khiêm (Sáu Trí)…. Mỗi cái tên đó gợi ra cả một huyền thoại, một “vũ trụ” chuyện kể riêng. Tuy nhiên, Nguyễn Chí Vịnh đã tinh tế lồng ghép họ vào câu chuyện chính một cách có chừng mực, tự nhiên, không làm loãng mạch truyện mà trái lại, còn tạo chiều sâu lịch sử. Chẳng hạn, ông mô tả cuộc gặp gỡ ngắn ngủi mà không ai hay biết giữa Ba Quốc và Phạm Xuân Ẩn – hai điệp viên ở hai mạng lưới khác nhau vô tình muốn khai thác tin lẫn nhau mà không hề biết cả hai cùng chung chiến tuyến. Chi tiết “oan gia ngõ hẹp” này vừa tạo thú vị cho người đọc, vừa thể hiện hiện thực oái oăm của công tác tình báo – đồng đội nhận không ra nhau, mỗi người một nhiệm vụ đơn độc. Những lát cắt như vậy làm bức tranh tình báo thời chiến thêm phần chân thực, sắc nét.

Nhờ phạm vi không – thời gian trải rộng, Người Thầy đạt được một tầm vóc sử thi nhất định trong thể loại hồi ký tình báo. Cuốn sách bao quát những thời điểm lịch sử đầy biến động có ảnh hưởng sâu sắc đến vận mệnh đất nước: từ cuộc kháng chiến chống Mỹ -chiến trường Sài Gòn ngầm, giai đoạn vừa thống nhất nhưng vẫn “trong vòng vây” -chiến trường Campuchia, biên giới phía Bắc, cho đến thời kỳ thế giới chuyển mình với sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa cuối thế kỷ 20. Tác giả khéo léo kết nối các giai đoạn ấy qua dòng hồi ức liền mạch của một con người đã “trải qua cả ba vị trí của ngành tình báo: điệp viên, người chỉ huy, và lãnh đạo cao nhất”. Nhân vật Ba Quốc chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, đưa người đọc đi qua từng chương sử. Mỗi chương sách tựa như một trận chiến mà người chiến sĩ phải đương đầu – trận chiến với kẻ thù cụ thể, và cũng là trận chiến với những thử thách nội tâm, những mất mát hy sinh của chính mình. Việc chia sách thành 7 chương, mỗi chương gắn với một giai đoạn thử thách khác nhau, giúp cấu trúc tác phẩm vừa đa dạng vừa gắn kết logic: độc giả không bị “choáng ngợp” bởi quá nhiều sự kiện, mà ngược lại thấy được dòng chảy liên tục của lịch sử và sự trưởng thành của nhân vật qua từng chặng đường. Bố cục hiện đại này là một thành công nghệ thuật, bởi nó giữ chân người đọc qua gần 500 trang sách mà không rời rạc, nhàm chán. Mỗi khi khép lại một chương hồi, ta đều muốn dõi theo bước tiếp theo của người thầy tình báo trong bối cảnh mới. Như nhà phê bình nhận xét, Người Thầy “có thể đọc một mạch” chính nhờ sự hấp dẫn trong từng câu chuyện và cách sắp xếp khoa học, hợp lý ấy

Tóm lại, bằng việc tái hiện nhiều bối cảnh và nhân vật trên nền những sự kiện có thật, Người Thầy đã thành công dựng nên một bức tranh ký ức phong phú về nghề tình báo Việt Nam suốt mấy thập kỷ sôi động. Bức tranh ấy có chiều rộng của lịch sử nhiều giai đoạn, nhiều địa bàn và chiều sâu của số phận con người những câu chuyện riêng đầy xúc động. Đây không đơn thuần là hồi ký cá nhân, mà còn là một biên niên ký của cả thế hệ tình báo anh hùng – thế hệ “những ngôi sao trong rừng sao” như cách Nguyễn Chí Vịnh ẩn dụ: Ba Quốc chỉ là một vì sao sáng trong cả bầu trời tình báo mà ông luôn khiêm tốn nhìn nhận công lao thuộc về tập thể. Chính điều này tạo nên giá trị bền vững cho tác phẩm: nó góp phần lưu giữ ký ức lịch sử của dân tộc, tôn vinh những con người thầm lặng đã làm nên lịch sử.

Nghệ thuật kể chuyện đặc sắc: chân thực, hồi hộp và thấm đẫm nhân văn

Từ những phân tích trên có thể thấy, Người Thầy đạt được thành công lớn nhờ nghệ thuật kể chuyện đặc sắc, kết hợp hài hòa giữa tính chân thực của hồi ký và sức lôi cuốn của tiểu thuyết. Nguyễn Chí Vịnh – tuy không phải nhà văn chuyên nghiệp – đã tỏ ra “mát tay” trong việc vận dụng các thủ pháp tự sự để truyền tải hiệu quả nội dung. Tác phẩm vừa đáp ứng yêu cầu “không lộ bí mật, né vấn đề nhạy cảm mà vẫn đảm bảo tính chân thực, cuốn hút” của thể loại đặc thù vừa có sức hấp dẫn như một truyện trinh thám ly kỳ.

Trước hết, giọng kể ngôi thứ nhất xưng “tôi” của tác giả – cũng là nhân vật người học trò – tạo nên điểm nhìn kể chuyện độc đáo. Độc giả được chứng kiến câu chuyện qua lăng kính của Nguyễn Chí Vịnh: lúc là chàng sĩ quan trẻ kính phục người thầy của mình, lúc là vị tướng tình báo nhiều trải nghiệm hồi tưởng quá khứ. Điểm nhìn này vừa đảm bảo tính xác thực (vì là người trong cuộc kể lại, nhiều chi tiết chỉ người kể mới biết), vừa mang màu sắc tâm tình gần gũi. Ta có cảm giác được nghe một môn đệ đang kể về người thầy vĩ đại bằng tất cả tấm lòng biết ơn, kính trọng. Sự kết hợp giữa ngôi kể hồi ức và giọng văn chân thành khiến tác phẩm giàu cảm xúc nhân văn, vượt lên một bản báo cáo công trạng khô khan. Người kể chuyện không ngại bộc lộ cảm xúc cá nhân – khi thì hồi hộp lo lắng theo bước thầy trong nhiệm vụ, khi thì xúc động nghẹn ngào trước những bài học “rất đời, rất người” thầy dạy. Chính yếu tố thầy – trò đã “làm mềm” chất liệu lịch sử, tạo chất trữ tình lắng đọng xuyên suốt tác phẩm.

Một thành công khác của nghệ thuật kể chuyện là khả năng xây dựng cao trào và kịch tính ở hầu hết các chương truyện. Nguyễn Chí Vịnh cho thấy sự nhạy bén khi chọn lọc từ “rừng tư liệu” khổng lồ những chi tiết đắt giá nhất, dựng thành các mảnh truyện với tình huống đặc biệt, bất ngờ. Các cao trào như đã nêu: vụ giải cứu Nguyễn Văn Linh, ám sát hụt Sihanouk, dự báo Liên Xô… đều được bố cục chặt chẽ, biết “gài” các chi tiết nhỏ dẫn dắt đến đỉnh điểm, rồi “bung” ra giải pháp một cách thỏa đáng. Nhờ vậy, tác phẩm giữ được độc giả trong trạng thái hồi hộp, đón đợi như đang đọc tiểu thuyết, mặc dù câu chuyện phi hư cấu. Bản thân tác giả từng thừa nhận viết về đề tài này dễ sa lầy nếu tham chi tiết, nhưng ông đã xử lý khéo léo để không đi vào dông dài mà vẫn truyền tải đầy đủ những gì cần thiết. Bí quyết nằm ở sự mẫn cảm của người từng trong nghề: ông kể chuyện “không làm văn, không màu mè nhưng lôi cuốn, thuyết phục”.  Văn phong tiết chế, mạch lạc, chỉ tập trung vào tình huống và con người, không sa đà mô tả rườm rà. Nhưng đôi chỗ, ngòi bút cũng rất điêu luyện khi tạo không khí hồi hộp: chẳng hạn tả cảnh ông Ba Quốc chờ liên lạc trong rừng đêm -âm mưu Sihanouk với ánh đèn biên giới quét qua quét lại, thời gian nhỏ giọt – đọc mà căng thẳng như chính mình đang ẩn nấp. Hay cảnh Ba Quốc “cân não” đoán ý cấp trên qua radio Hà Nội – vừa thực tế vừa như trinh thám tâm lý đầy cuốn hút. Rõ ràng, Nguyễn Chí Vịnh đã ứng dụng thành công thủ pháp “tiểu thuyết hóa” sự kiện có thật: ông kể chuyện đời thực nhưng với kỹ thuật của người viết truyện, tạo cấu trúc có kịch tính, có điểm nhấn cao trào và nút mở, khiến độc giả bị cuốn theo dòng chảy câu chuyện.

Đặc biệt, Người Thầy ghi dấu ấn ở tính chân thực và độ tin cậy hiếm thấy. Mọi tình huống dù ly kỳ đến đâu cũng được chắt lọc từ ký ức và tài liệu chính thống của ngành. Cuốn sách được viết “theo phong cách hiện đại, truyện nhưng phi hư cấu”, đảm bảo mỗi chi tiết đều có cơ sở thực. Tác giả thẳng thắn thừa nhận có những phần ông không thể và không dám viết ra (vì bí mật quốc gia chưa thể công bố) nên có thể còn “điểm mờ” chưa giải đáp hết. Nhưng chính sự tự chế đó lại tăng thêm niềm tin: độc giả hiểu rằng những gì được kể là tối đa sự thật có thể công bố, không có hư cấu tô hồng hay phóng đại. Như nhà báo Hoàng Hải Vân – người từng viết về ông Ba Quốc – cũng khẳng định loạt truyện về Ba Quốc “không hề uốn nắn theo chỉ đạo ai, mà trung thực tuyệt đối với sự thật – giống như đức tính chính trực của ông Ba Quốc, không báo cáo sai sự thật dù cấp trên lớn cỡ nào”. Người Thầy đã kế thừa tinh thần ấy: chính trực trong từng câu chữ. Kết hợp tính chân thực với giọng kể giàu cảm xúc nhân văn, tác phẩm đạt tới chiều sâu tư tưởng. Người đọc không chỉ bị cuốn hút bởi chuyện hay, mà còn cảm nhận được tâm tư, thông điệp của người viết gửi gắm sau câu chuyện. Đó là sự trân trọng quá khứ “không thể để những giá trị ấy mất đi, phải truyền lại cho thế hệ con cháu” – lời tác giả là tình cảm tri ân người thầy và thế hệ cách mạng Hồ Chí Minh, và là khát vọng giáo dục thế hệ trẻ bằng tấm gương sống động thay vì lý thuyết khô khan.

Có thể nói, Người Thầy đã đạt được sự cân bằng tuyệt vời giữa giá trị lịch sử và giá trị văn chương. Tác phẩm giống một cuốn phim tài liệu sống động về tình báo, xem xong ta hiểu thêm biết bao sự thật lịch sử; đồng thời nó cũng giống một tiểu thuyết với nhân vật, cốt truyện hấp dẫn, đọc xong ta thấy lay động lòng mình. Nhà phê bình Nguyễn Xuân Thủy nhận xét: khi gấp lại những trang cuối của Người Thầy, trong lòng ông lắng đọng “những cảm xúc, sự thấu hiểu, trân trọng, khâm phục và biết ơn”. Đó cũng chính là dư âm chung của nhiều độc giả yêu văn chương và lịch sử khi thưởng thức tác phẩm này.

Người Thầy của Nguyễn Chí Vịnh là một bài ca chân thực và xúc động về người anh hùng tình báo Ba Quốc, đồng thời là một tác phẩm văn học xuất sắc về đề tài lịch sử – tình báo. Bằng nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo, tác giả đã làm nổi bật ý nghĩa chủ đề ở nhiều tầng sâu: tôn vinh những chiến công tối mật và bài học kinh nghiệm vô giá của ngành tình báo; khắc họa chân dung một người thầy tình báo hội tụ đầy đủ phẩm chất trung kiên, nhân hậu, trí dũng song toàn; và tái hiện cả một thời đại qua lăng kính nghề tình báo – với tất cả gian truân, vinh quang cùng giá trị nhân văn cao cả.

Tác giả Nguyễn Chí Vịnh đã xây dựng thành công các tình huống điển hình: từ những phi vụ nghẹt thở như cứu ông Nguyễn Văn Linh, bảo vệ Quốc vương Sihanouk, đến những quyết sách chiến lược như dự báo Liên Xô tan rã – tất cả đều được kể bằng giọng văn chân thật mà lôi cuốn, tạo nên cao trào kịch tính và truyền cảm hứng tự hào. Qua đó giúp người đọc thấy rõ hình tượng người chiến sĩ tình báo “trắng hồ sơ” hiện lên sống động qua từng sự việc đời thường và thử thách phi thường, từ đó sáng ngời bài học về sự trong sạch, trung hậu và bản lĩnh sắt son. Cuốn sách đồng thời mở ra một bức tranh lịch sử rộng lớn, từ chiến trường khốc liệt đến hậu trường chính trị, được kết nối nhịp nhàng bằng mạch truyện hồi ức giàu cảm xúc. Tất cả những yếu tố nghệ thuật ấy làm cho Người Thầy vừa đậm chất học thuật cung cấp kiến thức lịch sử, nghiệp vụ bổ ích vừa dễ tiếp cận, lôi cuốn đối với đông đảo bạn đọc yêu thích văn chương và lịch sử.

Trong dòng chảy văn học Việt Nam đương đại, Người Thầy nổi lên như một hiện tượng đáng trân trọng. Tác phẩm đã hoàn thành sứ mệnh “điền vào chỗ trống” của lịch sử bằng văn chương: lưu giữ ký ức về một thế hệ anh hùng thầm lặng, truyền lửa lý tưởng và niềm tin cho thế hệ nối tiếp. Cuốn sách khép lại nhưng dư âm thì còn vang vọng mãi. Nó nhắc nhở chúng ta về một “Người Thầy” lớn – không chỉ là Thiếu tướng Đặng Trần Đức, mà còn là thế hệ những người thầy cách mạng, những giá trị vĩnh cửu mà họ để lại. Và biết đâu, như ước mong của nhà phê bình, sẽ có ngày một nhà tình báo trẻ hôm nay viết nên “Người Thầy” về chính Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh – người đã trao truyền ngọn đuốc ấy cho đời sau. Đó chính là vòng tuần hoàn cao đẹp của lịch sử và văn chương.

Hoàng Thị Thu Hà
Bạn đang đọc bài viết "Nghệ thuật xây dựng tình huống truyện độc đáo trong Người Thầy của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh" tại chuyên mục Văn hóa - Văn nghệ. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.