Cô Nga phân loại mứt tươi
Thực phẩm trời sinh
Từng đặt chân đến Nam Ô hàng chục lần nên từng con đường, cái hẻm ở làng chải cổ giữa lòng thành phố Đà Nẵng đã trở nên quá đỗi thân quen với chúng tôi từ lúc nào không biết. Thế nhưng lần nào đặt chân về ngồi làng chài cổ nhất của người Việt từ đèo Hải Vân trở vào đến mũi Cà Mau chúng tôi vẫn phát hiện được những điều mới mẻ. Trong một lần ghé thăm Nam Ô trong tiết trời se lạnh cuối thu. Chúng tôi tình cờ được những lão ngữ cả đời đằm mình với biển khơi kể cho nghe về một thứ nghề đặc biệt, duy nhất chỉ có ở cái làng chài này bên cạnh ấm chè nhạt mặn chát mùi nước biển. Mà theo các bậc cao niên ở đây thì có đi khắp đất nước này cũng chẳng tìm được nơi thứ hai có loại thực phẩm trời sinh này.
Lúc này người “giữ sử làng” Đặng Dùng mới chậm rãi lên tiếng: Có lẽ mấy lần trước các cháu về đây không đúng dịp nên bác chưa có dịp kể cho các cháu nghe về thứ đặc sản có một không hai của làng này ngoài nước mắm. Nó được coi là tinh túy của đất trời, sinh ra trong điều kiện khắc nghiệp nhất. Ngoài cái tên chữ vô cùng mĩ miều “huyền tảo” thì nó còn được những người ngư dân quanh năm ăn sóng, nói gió gọi bằng cái tên vô cùng dân dã “tóc tiên”. Người Nam Ô vẫn tự hào kể lại rằng, những thương nhân người Hoa ở chợ lớn trong những lần ghé Nam Ô thu gom vây cá ngừ đã biết đến món ăn lạ, nhưng hết sức đặc biệt này.
Sau những chuyến hàng đầu tiên thắng lớn, các thương nhân người Hoa không chỉ lặn lội “ăn trực nằm chờ” ròng rã hàng tháng trời để thu mua được “tinh túy của trời đất”. Huyền tảo trở thành một trong những cao lương mĩ vị trong những nhà hàng sang trọng bậc nhất ở Chợ Lớn. Huyền tảo thành món quà xa xỉ trong những chuyến hành hương trở về quê hương xứ sở bên Trung Quốc. Thế nhưng dù đi đâu người Hoa cũng chưa một lần đổi tên mà vẫn gọi bằng cái tên rất đỗi mĩ miều, gợi hình “tóc tiên” mà những người chủ hàng thường gọi. Cái tên tóc tiên gắn liền với truyền thuyết giải thích về sự hiểu biết và những giá trị tuyệt vời của huyền tảo. Mà dân làng chài Nam Ô họ vẫn thường kể cho nhau nghe vào những đêm trăng sáng.
Truyền thuyết kể rằng, vào thời xa xưa từ thủa theo chân các vua Lê vào đất Champa mở cõi, khi cư dân làng Nam Ô còn mông muội chỉ biết độc một nghề chài lưới, quanh năm làm bạn với sông nước, chưa biết làm lúa như bây giờ. Bữa ăn lúc nào cũng đầy ắp hải sản. Những khi giáp hạt, người nông dân không có thóc để mang đi đổi lấy hải sản khiến những hạt cơm càng trở nên hiếm hoi trong bữa ăn. Đấy là khi thuyền còn ra khơi được, chứ đến tháng mười hàng năm khi biển động, nghề biển sập cửa họ không biết lấy gì để có thể đổi gạo giữ bữa hàng ngày? Chẳng nhẽ cứ rau bãi, rau rừng chấm mắm mãi sao?
Trong làng có nhà ông Câu, đông con nhà nghèo thường xuyên phải chạy ăn từng bữa. Mùa biển động thuyền không thể ra khơi được, gia đình ông càng khó khăn. Ông đành phải bấm bụng vác cần ra gành những mong tìm được con cá về nấu cháo cho các con ăn. Cá chưa kịp cắn câu thì người đã lả đi vì đói. Ông bị quấn vào một giấc mơ kỳ lạ. Một bà tiên tóc đen huyền dài thướt tha bay lướt qua ông. Đôi mắt hoa lên vì đói, dạ dày sôi lên vì chưa có gì nhét vào bụng, ông vơ quàng hai tay lên mái tóc đen huyền đó đưa vào miệng. Thấy tóc có vị mặn, dịu mát, đậm đà hương vị của biển khơi. Ông ăn mãi, ăn mãi nhưng không có cảm giác chán mà chỉ thấy cơ thể mình như được tiếp thêm nguồn sinh lực. Đúng lúc đó thì một cơn sóng lớn ụp lên gành đá khiến ông choàng tỉnh, trong tay vẫn còn nắm chặt một mớ rêu biển đen mềm. Ông Câu nghĩ rằng tiền hiền hiện ra cứu khổ dân làng, vội thu một mớ rong rêu mà ông gọi là “tóc tiên” đem về cứu đói cho dân làng.

Mứt khô là mặt hàng có giá trị cao được xuất đi thị trường các nước Nhật Bản, Trung Quốc. Công đoạn ép cho mứt ráo nước
Thu nhập ngang giám đốc
Hàng năm, từ khoảng đầu tháng 10 đến giữa tháng chạp âm lịch khi tiếp trời bắt đầu chuyển lạnh, những dòng nước ngọt đỏ âu phù sa từ thượng nguồn đổ về cùng với những con sóng cuồng nộ của biển khơi vào mùa biển động cộng với tiết trời thất thường, bữa mưa bữa nắng cũng là lúc thực phẩm trời sinh bắt đầu sinh sôi nảy nở. Trên những tảng đá sát mét nước bao quanh các gành đá khu vực cửa sông Cu Đê, bao quanh các mỏm đá phía Nam chân đèo Hải Vân, phía bắc bán đảo Sơn Trà là những nơi tóc tiên lựa chọn để sinh sôi nảy nở. Theo cô Nguyễn Thị Tố Nga (SN 1959, ngụ tổ 116, Hòa Hiệp Nam) thì “trong điều kiên thời tiết thích hợp nhất (sáng nắng chiều mưa - PV) chỉ từ dăm ngày đến nửa tháng tóc tiên có thể dài ra đến cả tháng, để lâu có thể dài ra từ 3 - 4 tấc, đen nhánh như tóc”.
Tóc tiên (hay còn gọi là rong) được những người ngư dân ở đây chia làm hai loại. Loại to bản bè ra thường được gọi là rong lá, còn một loại mảnh mai dài ra như những sợi tóc thường gọi là rong tóc. Trong hai loại rong thì rong lá là loại được ưa dùng và có giá trị cao hơn. Hiện nay, rong không chỉ còn là một món ăn quen thuộc trong bữa cơm của người dân Nam Ô nữa. Rong đã trở thành một món chay không thể thiếu trong bữa cơm chay của những người theo đạo phật ở Đà Nẵng, xuất hiện trong các nhà hàng sang trọng ở Sài Gòn, Hà Nội, hay tận bên Trung Quốc, Nhật Bản xa xôi. Đặc biệt hơn theo cô Nga “rong là món ăn rất phù hợp với những người ăn chay trường vì nó giàu chất dinh dưỡng”. Cũng theo cô Nga cho biết thì do nguồn cung ít nên ở Đà Nẵng chỉ có các bậc thượng tọa, chủ trì các chùa lớn mới được dùng món này nên hiện nay nhu cầu sử dụng rong là rất lớn.
Cũng chính từ đây xuất hiện đội quân săn lộc trời chuyên nghiệp hơn dù nghề này có từ trước đây rất lâu. Ngày xưa, trước mỗi chuyến săn “lộc trời”, những ngư dân ở đây thường chuẩn bị sẵn một cái gùi tre (như cái gùi bằng mây của người dân tộc thiểu số), một cái cảu (như cái rổ) đan bằng tre sâu bụng hẹp miệng và 5 đến 6 cái “dũm” (dũm thường được làm từ sắt tây cắt hình tròn tận dụng từ thùng phuy đựng xăng dầu, có đường kính khoảng 10 cm). Ngày nay chỉ mang theo mấy cái bao tời, trong đó có một bao miệng lận vành sắt tròn làm đồ chứa rong trong lúc cạo, tiện lợi vô cùng khi gặp phải sóng đánh mà rong thu được vẫn còn nguyên. Thế nhưng không phải ai cũng ăn được lộc trời. Khi rong thường sinh sôi nảy nở ở những nơi sóng to, gió lớn mà những người gan dạ có phản ứng lanh lẹ mới theo được.
Để đến điểm “ăn” rong những ngư dân theo nghề này có thể hoặc đi bộ hoặc bằng ghe thuyền. Những ngày biển động, ghe không xuất bến được thì đi “ăn” bộ. Một nhóm từ 5 - 7 người thức dậy từ hai giờ sáng đi bộ ra những nơi ăn rong, nhưng chỉ đến được những bãi gần. Những ngày biển lặng, ghe có thể ra khơi thì mọi người rong thuyền đi “ăn” rong ở những bãi xa. Mỗi ghe hơn chục người. Có những ngày trời ban lộc trúng những ghềnh đá chưa có người đến khai thác, những người giỏi có thể kiếm từ 1,5 - 2 triệu đồng sau chưa đầy hai tiếng khai thác rong. Cũng theo cô Nga cho biết thêm con trai bà có tháng “trúng” có thể kiếm từ 30 đến 45 triệu, một mức thu nhập khiến nhiều người phải giật mình. Vào vụ thì người già, trẻ nhỏ một ngày cũng có thể kiếm từ năm đến bảy trăm ngàn từ cạo rong.
Khi chúng tôi thắc mắc về mức thu nhập “khủng” như vậy bà Nga cho biết là do rong biển có giá trị rất cao, rong tươi được thu mua tại chỗ với giá từ rất cao từ 65.000 - 70.000đ/kg, còn rong khô có giá khoảng 700.000đ/kg. Thế nhưng không phải lúc nào cũng có rong để cung cấp cho thị trường khi không phải ai cũng đủ bản lĩnh đi “ăn” rong khi rong chỉ phát triển mạnh ở những nơi đầu sóng ngọn gió.
Thức ăn có giá trị dinh dưỡng cao: Tóc tiên hay còn gọi là rong mứt Porphyra thuộc ngành rong đỏ biển phát triển mạnh mẽ, mọc thành từng cụm phủ dày trên các khe, ghềnh đá ở các rạng đá Ngầm, bãi Rạng của bán đảo Sơn Trà và các bãi đá thuộc khu vực Nam Ô, Hòa Vân, chân đèo Hải Vân. Tóc tiên có giá trị dinh dưỡng cao, với hàm lượng chủ yếu là protein, carbohydrate, vitamin B, B2, A, C, nhiều nguyên tố vi lượng và khoáng, hàm lượng calory rất thấp, rất thích hợp cho những người ăn kiêng, người bị tiểu đường.
Nhật Tân