Sinh thời, một lần đến thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, khi đến phòng trưng bày hình ảnh Phan Đăng Lưu, Tổng Bí thư Lê Duẩn đã nói: "Phan Đăng Lưu là nhà trí thức cách mạng tiêu biểu".
Nghệ An chính là nơi ươm mầm và phát triển hạt giống yêu nước, cách mạng và hình thành nên nhân cách cao đẹp của đồng chí Phan Đăng Lưu. Đây cũng là nơi ghi dấu hành trình người thanh niên Phan Đăng Lưu từ người trí thức yêu nước trở thành người chiến sĩ cộng sản ưu tú, một trong những người cộng sản đầu tiên của Đảng.
Nhân kỷ niệm 120 năm Ngày sinh đồng chí Phan Đăng Lưu (05/5/1902 - 05/5/2022), chiều ngày 25/04/2022, tại thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Ban Tuyên giáo Trung ương và Tỉnh ủy Nghệ An tổ chức Hội thảo khoa học với chủ đề: “Đồng chí Phan Đăng Lưu với cách mạng Việt Nam và quê hương Nghệ An”.
Đồng chí Phan Đăng Lưu - Người thầy Cách mạng...
Đồng chí Phan Đăng Lưu sinh ngày 05/5/1902, tại thôn Đông, xã Tràng Thành, nay là xã Hoa Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An - một vùng quê giàu truyền thống văn hóa và cách mạng, trong một gia đình nhà nho, có truyền thống yêu nước. Tiếp thu truyền thống tốt đẹp của dân tộc, quê hương và gia đình, đồng chí Phan Đăng Lưu đã sớm hình thành tư tưởng yêu nước, ý chí đấu tranh chống áp bức, bất công.
Năm 1925, Phan Đăng Lưu được kết nạp vào Hội Phục Việt, sau đổi tên thành Hội Hưng Nam, Việt Nam Cách mạng Đảng và Tân Việt Cách mạng Đảng. Hoạt động tích cực và được tín nhiệm cao, tại Đại hội thành lập Tân Việt Cách mạng Đảng (tháng 7/1928), đồng chí được bầu là Ủy viên Ban Chấp hành Tổng bộ Tân Việt. Đồng chí được tổ chức tin tưởng giao nhiệm vụ sang Trung Quốc để bàn việc hợp nhất với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Khi chuẩn bị sang Trung Quốc lần thứ hai (1929), đồng chí bị thực dân Pháp bắt ở Hải Phòng đưa về giam tại Nhà lao Vinh rồi đày lên Nhà tù Buôn Ma Thuột. Bị đày ải 7 năm trong lao tù đế quốc, đồng chí đã trở thành đảng viên cộng sản và tham gia Ban lãnh đạo Nhà tù. Vượt qua mọi đòn roi, tra tấn của kẻ thù, đồng chí đã cùng với các chiến sĩ cộng sản kiên trung khác biến lao tù đế quốc thành trường học cách mạng, thành nơi rèn luyện ý chí, bản lĩnh người chiến sĩ cộng sản, để chuẩn bị sẵn sàng sau khi ra tù tiếp tục phụng sự Tổ quốc, phụng sự Đảng và phục vụ nhân dân.
Giữa năm 1936, ra khỏi nhà tù thực dân, đồng chí Phan Đăng Lưu lại tiếp tục hoạt động cách mạng tại Huế. Tháng 8/1936, đồng chí đã bắt liên lạc được với Đảng và tích cực tham gia khôi phục lại hệ thống tổ chức Đảng ở Trung Kỳ.
Nhớ về đồng chí Phan Đăng Lưu và tờ báo Dân, nhà thơ Tố Hữu đã viết trong sách “Nhớ lại một thời” rằng: “Anh Lưu nói: Báo ta (tức Báo Dân) hơi khô. Cậu biết làm thơ hãy làm những bài thơ về những người lao động nghèo khổ. Nghèo khổ không phải là số phận, mà do đế quốc, phong kiến bóc lột và do sưu cao thuế nặng nề. Những cảnh ăn mày, đầy tớ, trẻ mồ côi… có rất nhiều điều cần viết để thức tỉnh nhân dân. Cậu cố gắng viết để đăng được một số một bài hoặc vài số một bài, có thể nhờ đó mà dân ta thích đọc báo ta hơn, nhưng phải chú ý: dễ hiểu, dễ nhớ và đừng dài dòng”.
Tháng 3/1937, Xứ ủy lâm thời Trung Kỳ được tái lập, do đồng chí Nguyễn Chí Diểu là Bí thư. Đồng chí Phan Đăng Lưu được cử là Ủy viên Thường vụ Xứ ủy, đứng đầu bộ phận công khai, hợp pháp. Đồng chí cũng đặc biệt quan tâm và góp phần quan trọng đào tạo, bồi dưỡng những cán bộ ưu tú, sau này trở thành những cán bộ cao cấp của Đảng và Nhà nước, tiêu biểu như: Nguyễn Kim Thành (Tố Hữu), Nguyễn Vịnh (Nguyễn Chí Thanh), Hoàng Anh, Trần Quỳnh, ...
Cùng với việc khôi phục hệ thống tổ chức Đảng, đồng chí Phan Đăng Lưu cũng tích cực tham gia chỉ đạo tổ chức thành công các cuộc đấu tranh cách mạng sôi nổi, mạnh mẽ ở Trung Kỳ đòi các quyền dân sinh, dân chủ của nhân dân, tiêu biểu như phong trào Đông Dương Đại hội tại Trung Kỳ (tháng 9/1936); cuộc đón tiếp phái đoàn của Chính phủ Mặt trận bình dân Pháp do Gôđa dẫn đầu sang điều tra tình hình ở Đông Dương và Việt Nam (tháng 2/1937); Hội nghị báo giới Trung Kỳ (tháng 3/1937); đặc biệt là chỉ đạo giành thắng lợi vang dội trong cuộc tuyển cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ tháng 8/1937 và tháng 7/1939...
Bên cạnh đó, đồng chí Phan Đăng Lưu cũng luôn quan tâm chăm lo, xây dựng các đoàn thể quần chúng như: Hội ái hữu, Hội tương tế, Nhóm đọc sách báo..., qua đó tập hợp, tổ chức lực lượng, nâng cao trình độ giác ngộ của quần chúng nhân dân, đưa họ tham gia tích cực vào các cuộc đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Với những đóng góp to lớn trong phong trào cách mạng, tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 9/1937, đồng chí Phan Đăng Lưu đã được bầu vào Trung ương Đảng. Được cử vào Nam Kỳ hoạt động để tăng cường bộ máy lãnh đạo của Đảng, đồng chí đã cùng các đồng chí trong Trung ương, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chuẩn bị chu đáo và tổ chức thành công Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11/1939, quyết định thay đổi chiến lược cách mạng Việt Nam, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trên hết.
Năm 1940, khi hầu hết các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương bị thực dân Pháp bắt, nhiều đồng chí trong Xứ ủy Nam Kỳ chủ trương tiến hành khởi nghĩa, với tư duy nhạy bén, đồng chí Phan Đăng Lưu sớm nhận thức được yêu cầu phải khẩn trương tổ chức tái lập lại Ban Chấp hành Trung ương và kiên trì đề nghị hoãn cuộc khởi nghĩa, chờ ý kiến chính thức của Trung ương. Đồng chí đã lên đường ra Bắc và tham gia tổ chức thành công Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11/1940. Hội nghị đã thành lập Ban Chấp hành Trung ương mới của Đảng do đồng chí Đặng Xuân Khu (Trường Chinh) làm Quyền Tổng Bí thư và quyết định hoãn Khởi nghĩa Nam Kỳ. Đây là những quyết định thể hiện vai trò, cống hiến và tài năng lãnh đạo của đồng chí Phan Đăng Lưu đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc.
... Người Cộng sản kiên trung, bất khuất
Lựa chọn lý tưởng cách mạng vì nước, vì dân, cuộc đời đồng chí Phan Đăng Lưu là tấm gương tiêu biểu của người thanh niên yêu nước nhiệt thành. Đồng chí đã từ bỏ con đường mưu cầu danh lợi cá nhân để đến với lý tưởng cộng sản cao đẹp và trở thành một trong những đảng viên thế hệ đầu tiên của Đảng.
Ngay cả khi bị giam cầm, đày ải trong nhà tù đế quốc, đồng chí Phan Đăng Lưu vẫn luôn giữ vững khí tiết của người cộng sản, nêu cao tinh thần kiên trung, bất khuất trước những âm mưu dụ dỗ, những đòn roi tra tấn tàn bạo của kẻ thù; luôn thương yêu, đoàn kết giúp đỡ các bạn tù; đồng thời là hình ảnh tiêu biểu về tinh thần không ngừng học tập, rèn luyện ý chí, bản lĩnh cách mạng.
Trong cuộc đấu tranh cách mạng đầy cam go, thử thách, đồng chí luôn nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, tuyệt đối phục tùng sự điều động, phân công của tổ chức, sẵn sàng đi đến những nơi nguy hiểm nhất, gay go, ác liệt nhất. Đồng chí đã sát cánh cùng các đồng chí trong Trung ương Đảng và Xứ ủy Nam Kỳ chỉ đạo phong trào cách mạng phát triển. Khi hầu hết các đồng chí trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng bị mật thám Pháp bắt, là người duy nhất còn lại trong Trung ương, đồng chí đã nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Đảng và nhân dân, khẩn trương tổ chức việc tái lập Ban Chấp hành Trung ương mới, đã lãnh đạo phong trào cách mạng và kịp thời đề ra chủ trương tạm hoãn khởi nghĩa Nam Kỳ.
Trở về Nam sau Hội nghị Trung ương tháng 11/1940 để truyền đạt ý kiến của Trung ương hoãn cuộc Khởi nghĩa Nam Kỳ. Đồng chí bị thực dân bắt và kết án tử hình. Trước tòa án thực dân, đồng chí vẫn hiên ngang, giữ vững tinh thần lạc quan cách mạng, vững tin vào tương lai tươi sáng của cách mạng cho đến lúc anh dũng hy sinh.
Trọn cuộc đời, phấn đấu, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, đồng chí Phan Đăng Lưu đã để lại tấm gương đạo đức cách mạng cao đẹp, trong sáng của người chiến sĩ cộng sản.
Nhà thơ Tố Hữu đã từng nhận định: “Phan Đăng Lưu là nhà lãnh đạo lỗi lạc, trí tuệ uyên bác, tác phong giản dị, gần gũi đã có sức cuốn hút lớp trí thức trẻ như chúng tôi và cả những trí thức lớn như cụ Phan Bội Châu, cụ Huỳnh Thúc Kháng...”./.