Lý giải tượng đá ông Chồng bà Chồng

14/12/2020 11:06

Theo dõi trên

Kinh sách nói: Ý thức thần thoại và triết học là sự hiểu biết đầu tiên của con người về chính mình và ngoại cảnh. Đối với nhân loại cổ sơ, không có đến hai hình ảnh về thế giới - một khách quan và một chủ quan - như chúng ta quan niệm ngày nay, mà chỉ có hình ảnh hồn nhất (1).

Lại tiếp, đại nhân là nói người ta coi trời, đất vạn vật làm một thể, coi thế giới làm một nhà, toàn dân làm một người. Ví bằng đem hình hài so sánh mà đặt câu hỏi của mình của người, phân tích cái ta và cái không ta thì là tiểu nhân vậy. Đại nhân mà có thể coi thiên địa vạn vật làm một thể, không phải chỉ là ở lý tưởng mà thôi đâu, đấy là cái bản thể nhân bản của tâm, nó vốn cùng thiên địa vạn vật là một thể. Phải chăng chỉ có đại nhân mới thế? Chỉ vì kẻ tiểu nhân tự coi mình là tiểu đó thôi (2).  
 
 
Tượng ông Chồng bà Chồng ở Sầm Sơn Thanh Hoá. Ảnh: TGCC

Trịnh Xuân Thuận, nhà bác học vật lý vũ trụ, tín đồ của đạo Phật từng nói: "Khoa học cung cấp cho ta những dữ kiện, nhưng không mang lại sự tiến bộ về tâm linh và chuyển hoá. Trái lại, sự tiếp cận tâm linh hay quán tưởng chắc chắn phải đưa ta đến một số chuyển hoá bản thân sâu sắc mà chúng ta nhận thức về thế giới để dẫn đến hành động; do đó hiện thực và tâm linh là hai cánh cửa của nhận thức (3).
 
Như vậy, con người vẫn là chủ thể bao quát cả Thiên, Địa, Nhân và môi trường do đó bất kỳ ở đâu có một vật đại diện cho con người tức là ở đó có con người. Nếu chúng ta coi loài người cũng từ loài vật mà ra thì loài vật đánh dấu lãnh địa của chúng bằng nước tiểu, còn con người thì dựng luôn vật biểu tượng sinh thực khí của mình ở đó để đánh dấu.
 
Vì thế ở người Kinh, những vùng đất do con người cai quản đều được người ta đặt vào đấy những hiện vật biểu tượng Nõ Nường hoặc là những hiện vật kí thác. Hiện vật kí thác thì nhiều vô kể, chẳng hạn như đá Ông chồng bà chồng ở Sầm Sơn Thanh Hoá hoặc ở vùng biển tỉnh Quảng Ninh, từ Cửa Ông ra Quan Lạng, mặt biển có những ngọn núi dựng đứng, đều có tên là sinh thực của nam và nữ - tức là hòn núi "C" hòn núi "L" (Nõ Nường). Khách du lịch hỏi tại sao lại đặt tên như thế? Người hướng dẫn du lịch nói: đó là quan niệm của người đời xưa. Và trên bản đồ Di sản văn hoá thế giới vùng Quan Lạng chúng tôi cũng thấy ghi rõ các tên như thế.
 
Hiện tượng này có thể thấy ở các cánh đồng của những làng quê của cả nước, chẳng hạn ở Nam Định, theo đường từ thành phố đi Ninh Bình, đến đoạn đền Phủ Dầy thì bên trái phía biển có hòn núi "C..." và bên phải có cánh đồng "L..", hoặc ở làng Ninh Hiệp huyện Đông Anh Hà Nội, ngoài cánh đồng có thửa ruộng "ba bờ", hòn đống "C...", hoặc ở làng Kẻ Giáp (nơi có miếu thờ Nõ Nường) nay là xã Tứ Xã, Lâm Thao, Phú Thọ, ngoài cánh đồng đều phân chia theo biểu tượng Nõ Nường: có một con lạch, nước chảy từ miếu Trò uốn lượn qua cánh đồng ra sông Cái gọi là lạch "C...", còn các thửa ruộng hai bên con lạch đó có tên là "L..." còn gọi là ruộng "ba bờ".
 
Ngoài ra, các nơi có những tảng đá nằm cạnh nhau người ta cũng gọi đó là hòn Trống mái, do đó theo chúng tôi, biểu tượng "rùa" đội "bia" đá ở khu Văn Miếu (ảnh 2) cũng là hình ảnh của vật "thiêng" như đá Ông chồng bà chồng - Nõ Nường.
 
Tâm thức về văn hoá Nõ Nường của người Kinh Giao Chỉ rất sâu sắc, xuất hiện từ thuở thỏi đá cầm tay, đến chày bàn nghiền, hoặc tượng nam nữ trên thạp đồng Đào Thịnh, hoặc tượng người đàn ông ở di chỉ Văn Điển, hoặc tượng Bà Đanh (Banh). Tượng Bà Đanh tồn tại cho đến nửa đầu thế kỷ XX, hoặc miếu thờ Nõ Nường và lễ hội Nõ Nường thì có ở nhiều nơi. Ngay những trụ đá đơn, nhưng trong đó đã có hình của hai vật Nõ Nường trên tròn dưới vuông, hoặc trên vuông dưới tròn, cột mốc còn gọi là Ông mốc hoặc như trụ Đá thề ở núi Nghĩa Linh, chùa Một Cột, Hà Nội, v.v...
 
Trong tín ngưỡng "ông Mốc" cột mốc) của văn hoá cổ truyền, ngày nay ở miền Bắc hầu như không còn nữa, nhưng ở miền Nam thì vấn đề này vẫn còn đang sâu sắc, nhất là ông Mốc dựng ở vị trí địa giới của ba làng. Ngày xưa, khi cắm ông Mốc thì các nhà chức trách, như lý trưởng kì mục của cả ba làng đều có mặt để làm lễ hạ mốc.
 


 
Hai cha con đứng bên “Ông Mốc" -  Rùa đội bia đá - Ảnh: TGCC

Trong những lần về thăm quê Quảng Trị tôi đi tìm lại dấu tích tâm linh ông Mốc, nơi ngày tôi mới sinh, cha tôi đem gửi. Khi đến 12 tuổi hết hạn, cha tôi dưa tôi đi theo, dâng lễ tạ, xin cho tôi về. Lễ tạ là một quả trứng đặt trên bát cơm và 3 nén hương. Tuy tôi đã xin về, nhưng  ông Mốc vẫn theo giõi và sẽ đến ứng cứu khi tôi bị lâm nguy. Do đó, tôi có một niềm tin sắt đá, cho đến ngày nay không ai xâm hại được "hồn" của tôi. (Minh triết phương Đông quan niệm "thần hồn" bảo vệ "thần xác", chẳng hạn thuở nhỏ, "thần hồn" Đinh Tiên Hoàng loé vầng hồng chắn lưỡi mai của ông chú lao vào gót chân).
 
Trong lần điền dã, tôi gặp một người cha đưa con đến lễ tạ xin con về tại  ông Mốc của làng Phương Ngạn, huyện Triệu Phong, Quảng Trị. Ông Mốc ở đây do lâu năm bị lún sâu.     
 
Ông Trưởng làng Phương Ngạn Nguyễn Thanh Duệ cho biết: Ông Mốc ở làng Phương Ngạn, không chỉ có uy tín với dân ở địa phương mà còn với cả người ngoài tỉnh nữa: vào ngày rằm, mồng một hàng tháng đều có người đưa con đến gửi nhờ ông mốc trông coi hộ. Vị trí này cạnh đường ôtô từ thành cổ Quảng Trị đi Cửa Việt cho nên người ở Huế ra và Đông Hà vào đều thuận tiện. Ngày gửi thì lẻ tẻ, nhưng ngày tạ thì cùng một lúc, đó là ngày mồng 5 tháng 5 ta và mồng 1 tết Âm lịch. Người đến lễ tạ, xếp hàng rồng rắn đến 5 ngày mới tan lễ.
 
Người xưa coi ông Mốc là một vật "thiêng", vì ngài đã nhận lệnh của Thần hoàng làng ra chôn chân xuống vị trí địa giới của ba làng: một tấc không đi, một li không rời, ngày đêm trông coi đất đai của làng. Do đó, ông Mốc có đủ linh nghiệm trông coi "thần hồn" cho mỗi thành viên trong làng.
 
Tiếng miền Trung gọi đường ranh giới giữa hai làng là "cọi giái" - "cọi" là gọi chệch từ "cọc" mà thành. Nếu đúng nghĩa về hình ảnh của "cọi giái" thì gồm một cái trụ đứng "cọc", còn dưới chân trụ là hai bọng tròn hai bên - nói theo nghĩa đen thì "cọc" ở giữa là C…còn hai bìu hai bên la hòn "giái". Hiện nay, cột mốc cắm ở biên giới cũng thiết kế theo mẫu mã này, nhưng người ta không để ý, chỉ nghĩ cái bọng ấy là để giữ cho vững cột. Song cái gì cũng có lịch sử nguồn cội của nó, phải đặt chúng vào hệ thống thì mới nhận thức được vấn đề.
 
Văn hoá Nõ Nường trong các dân tộc thiểu số ở nước ta cũng rất phong phú. Người Thái ở Tây Bắc, trên nóc cột bếp trong nhà sàn, treo một cái "mu rùa" và cái "dùi đục", chiếc cột ấy gọi là cột "xau hẹ" vật "căm" để trông coi ngọn lửa cho bếp ăn của gia đình "lớn" - ngôi nhà "lớn" dài 20 đến 30 gian, chiều ngang đến 10m. Khi trong nhà có việc tang thì quan tài được quàn cạnh cột "xau hẹ" này(4).
 
Với người Hà Nhì trên cổng bản treo một đôi "dùi đục", "mu rùa" để người của bản khi đi làm nương về, hoặc người lạ vào bản phải lòn cúi dưới đó, chịu sự kiểm tra tránh bọn ma quỷ trà trộn theo người lẻn vào bản, gây hại cho người và gia súc(5).

Nhận xét

Truyền thuyết kể rằng, vùng đất này trước tiên là của Qủy, người đến sau. Chuyện diễn ra về cuộc tranh quyền về vùng đất này giữa Người và Qủy vô cùng ác liệt. Người được Phật giúp sức trong việc đuổi Qũy và dạy: Đuổi Qủy ra được đến đâu thì dùng cây Nêu cắm ở đó đề làm ranh giới. Đợt cuối cùng Người đuổi Quỷ ra ngoài biển, nhưng không dựng được cây Nêu, cho nên mã hóa ngay vật Nõ Nường của Người vào những trụ đá nhô lên ngoài biển để làm ranh giới.

Như vậy, hệ thống hiện vật biểu tượng được mã hóa tinh thần của Nõ Nường vào là để làm dấu trừ đuổi Qủy, còn vật linh Nõ Nường là Bùa chú của giới pháp sư thầy mo trừ đuổi tà ma cứu giúp mạng sống cho con người. Người xưa quan niệm người bị ốm đau, dẫn đến cái chết là do ma bắt.
 
Nhưng ngày nay hễ thấy biểu tượng Nõ Nường thì cho đó là biểu đạt về “phồn thực”. Thấy thế mà nói thế thì bà hàng nước cũng nói được, cần gì đến nhà nghiên cứu: Nó là nó nhưng không phải nó (triết học). Biểu tượng là mượn cái này để nói về cai kia, dùng cái hiện thực để nói cái siêu thực, được xuất hiện vào thời chưa có ngành Y tế và thuốc trừ sâu.
 
Việc sinh đẻ là không khó: Cả cuộc đời của một bà mẹ có thể sinh được 10 đứa con nhưng bà không nuôi sống được tất cả các con, phần lớn chúng ốm đau ròi chết. Trước tình cảnh một đứa bé đang khỏe mạnh, vui chơi bổng xẩy ra trận ốm, nó đang nằm hấp hối chờ chết. Mọi người thân vây quanh khóc than kêu trời van đất nhưng đành bó tay. Trước tình cảnh quẫn bách ấy, những bậc “tài trí” cho rằng, nơi sinh ra nó thì phải có trách nhiệm cứu mạng sống cho nó. Đó là thời điểm xuất hiện vật linh Nõ Nường làm bùa chú.
 
Để vật linh bùa chú có đầy đủ linh nghiện, nay gọi là (Hô thần nhập tương) người ta tiến hành nghi lễ với những động thái “lắp khít nhau” của Nõ Nưỡng cho đến khi thụ thai một thai nhi: gọi là lễ “múa mo” dùng dùi “phộc” vào mo nang. Nghi lễ này ngày nay được khôi phục ở miếu Trò Trám Tứ Xã (Phú Thọ).                                                
 
_______________                                                
 
Chú thích:
 
1. Nguyễn Đăng Thục, Lịch sử triết học phương Đông, N.x.b T.p H.C.M, 1997, tập 1, tr16.
 
2. Nguyễn Đăng Thục, sđd, tr 15.
 
3. Trịnh Xuân Thuận, Chất thơ của vũ trụ Báo An ninh thế giới số 53/ tháng 12 / 2005 tr 18.
 
4. Tư liệu sưu tầm điền dã của chúng tôi năm 1960.
 
5. Hội Văn nghệ dân gian Việt Nam, Giữ gìn và phát huy tài sản văn hoá dân tộc ở Tây Bắc và Tây Nguyên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội,1998 - nhiều tác giả, Lý Khai Phà, Tìm hiểu một số vấn đề văn hoá dân tộc Hà Nhì, tr 136.
 
Nhạc sỹ Dương Đình Minh Sơn

Bạn đang đọc bài viết "Lý giải tượng đá ông Chồng bà Chồng" tại chuyên mục Di sản. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.