
Sinh năm 1957, ở một huyện miền núi tỉnh Nghệ An, chưa học lớp 10 phổ thông thì Nguyễn Văn Thắng xung phong đi bộ đội, vào chiến trường B3 chiến đấu trong đội hình trung đoàn 66 - Binh đoàn Tây Nguyên, sau đó đơn vị chuyển sang giúp Bạn tại PhnomPenh, Campuchia. Mọi người bàn với anh nên xin về học tiếp. Tuy nhiên, với nhiệt huyết của tuổi trẻ anh vẫn tình nguyện ở lại chiến đấu cùng đồng đội. Anh viết thư về kể cho mẹ nghe trong những ngày đầu sang nước Bạn: “Mẹ kính mến! Sang nước Bạn chúng con phải ở trong những căn cứ đặc biệt. Đêm đến, chúng con nhồi gối, đắp chăn trên giường giống y như người đang nằm ngủ, còn mình thì bò xuống hầm để tránh đạn hoặc không bị bọn lính Pôn Pốt mò vào mưu sát…”.
Thế rồi, trong một lần đi trinh sát địa hình cùng đồng đội, bọn Pôn Pốt vẫn ẩn náu trong rừng, chúng cài bom mìn và bắn tỉa gây thương tích cho bộ đội Việt Nam. Hôm ấy, anh vấp quả mìn phát nổ cướp mất đôi chân của chàng trai mới 22 tuổi. Đây là loại mìn có vỏ bằng nhựa nên khi rà phá rất khó phát hiện. Sức công phá của loại mìn này rất nguy hiểm. Khi phát nổ, mảnh của nó sát thương rất lớn, gây thương vong nhiều cho bộ đội ta. Anh được đồng đội chuyển về nước vào điều trị tại Bệnh viện Quân khu 9. Anh phải chịu đựng nỗi đau lên bàn mổ rất nhiều lần và trong bệnh án bác sĩ ghi chi chít: Một mảnh đạn găm ở trong đầu, phải cắt đôi chân... Thời điểm ấy, thương binh từ chiến trường K về điều trị rất đông. Thỉnh thoảng có người cùng quẫn lên cơn, đòi tự sát, trốn ra cổng bệnh viện quậy phá. Những lúc như thế, Thắng lặng lẽ ngồi trên chiếc xe lăn ra khuyên nhủ đồng đội. Có lần, một thương binh chạy ra giữa đường gào thét ầm ĩ:
- Chết… Chết mẹ cho nó rồi…
Mọi người cùng lăn ra cười đau hết cả ruột:
- Mẹ mày… Sống mới khó, chứ thích chết thì dễ ợt…
Câu nói đó khiến người thương binh bừng tỉnh, cả bệnh viện đồng loạt thở phào nhẹ nhõm. Điều trị một thời gian, vết thương tương đối ổn định, Thắng được chuyển ra Bắc vào trại an dưỡng thương, bệnh binh ở huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An. Tại đây, Thắng gặp cô y tá Trần Thị Trinh. Cô đem lòng thương mến anh và chính điều này đã chữa lành vết thương trong tâm hồn anh. Tình yêu cứ thế nhân lên, anh vui mừng viết thư về thăm mẹ và động viên em gái: “Mẹ đừng buồn! Tuổi tác và thương tật không làm con chùn bước. Dù mất một phần xương thịt và tuổi xuân nhưng may mắn còn sống sót sau chiến tranh, dẫu “phế” nhưng chưa thật “tàn”. Trọn cuộc đời này con chỉ mong sao được sống bình dị, giản đơn như một người lính đã hoàn thành nhiệm vụ trở về...”.
Những ngày đầu vào trại thương binh, anh thường nghĩ về những ước mơ còn dang dở: “Chỉ mấy ngày trước khi bị thương, thủ trưởng đơn vị còn nói cho anh đi học hết văn hóa, rồi vào trường kỹ thuật quân sự”. Vết thương về thể xác đã đau thì vết thương lòng càng đau đớn hơn nhiều. Từ một chàng trai trẻ trung yêu đời bỗng trở nên bất cần, thường xuyên mượn rượu để giải sầu. Cứ đầu giờ chiều là lăn bánh ra quán mua rượu, lúc đó Thắng đang chán đời. Bỗng một hôm, Y tá Trinh đẩy chiếc xe lăn cho anh rồi thủ thỉ nói chuyện, an ủi, động viên khuyên anh bỏ rượu… thế rồi, cô đem lòng thương chàng trai lúc nào không hay.
Biết chuyện cô Trinh yêu và quyết định lấy chồng thương binh, ai cũng ngăn cản. Kẻ nói ra, người nói vào. Tuy nhiên, vì yêu nên cô chấp nhận tất cả. Thái độ cương quyết của cô gái khiến mọi người trong gia đình, họ hàng và bạn bè đều chia sẻ. Cô suy nghĩ: “Ai cũng có chồng, sinh con, sao mình không dám…?”. Nhiều hôm Thắng không ngủ ngồi tâm sự với Trinh về hoàn cảnh... Từ sự đồng cảm đã nhen nhóm lên tình yêu lứa đôi, cô Trinh đồng ý kết duyên, dành cả cuộc đời để chăm sóc cho anh. Quyết định ấy của cô ban đầu bị gia đình phản đối. Họ thương con gái sẽ vất vả nếu gắn bó cả cuộc đời với người thương binh nặng, lại bị loạn thần như anh Thắng. Nhưng cuối cùng, tình cảm chân thành của anh chị đã được gia đình hai bên ủng hộ.
Nhớ lại ngày vui đặc biệt của cuộc đời mình, cô Trinh kể: Trung tâm đã đồng ý tổ chức đám cưới tập thể cho một số đôi lứa yêu nhau, mình và anh Thắng là một trong những đôi được xe duyên dịp ấy. Một cuộc hôn nhân diễn ra nhưng không nhẫn cưới, không của hồi môn, ấy vậy mà trở thành vợ chồng. Trong ngày vui trọng đại, đám cưới chỉ có bánh kẹo, điếu thuốc thơm để mời bạn bè. Khách của anh chị khi ấy cũng thật đặc biệt, chủ yếu là các bác thương binh, bệnh binh đang điều trị tại Trung tâm. Họ đã dành cho anh chị giây phút tỉnh táo nhất, hát tặng đôi trai gái những bài hát hay nhất để chúc mừng hạnh phúc lứa đôi.
Sau khi điều trị một thời gian, anh bàn với vợ trở về địa phương sống với gia đình. Chàng thương binh nghĩ đủ cách để có đồng ra, đồng vào. Họ dành dụm từng đồng lương y tá và thương binh ít ỏi để chờ đứa con đầu lòng chào đời. Chị Trinh được chính quyền bố trí cho công việc làm hộ lý ở Trạm xá xã. Thương vợ, anh tự làm việc nhà dù phải di chuyển trên chiếc xe lăn, thậm chí anh sẵn sàng “lăn bánh” nhiều cây số để mua củi, bột cưa về cho vợ nấu cơm. Thỉnh thoảng mắt anh lại sáng lên, chốc chốc lại nhìn về phía xa xăm ôn lại những lúc đói rét, cơ hàn nằm rừng chờ lệnh chiến đấu.
Đến quốc lộ 1A, qua ga Quán Hành gần cổng doanh trại quân đội có một ngôi nhà đơn sơ. Ít ai biết ông chủ cụt chân ngồi sửa xe đạp, xe máy từng là trinh sát ở chiến trường máu lửa Campuchia. Mỗi khi, cô Trinh bận lo việc chăm sóc bệnh nhân, một mình anh vừa tự chăm sóc bản thân vừa tự nấu cơm, giặt giũ, chăn nuôi cho lợn gà ăn. Xong xuôi lại lên quốc lộ bán xăng, sửa xe… công việc cứ thế quần quật suốt ngày đêm. Anh thường tâm sự với vợ: “Mình còn may đem được thân tàn về nhưng biết bao đồng đội, bạn bè bỏ xác lại trên chiến trường… Chiến tranh mất mát chẳng có gì bù đắp được. Gia đình mình được đoàn tụ trong ngôi nhà này là hạnh phúc lắm rồi…”. Mỗi lần nghe anh động viên, chị lại rưng rưng nước mắt. Cuộc sống của hai vợ chồng rất vất vả nhưng hiếm khi hờn giận vì chị đã chấp nhận hết mọi thứ rồi. Thắng cười rất mãn nguyện. Để đáp lại tình cảm, sự hy sinh của vợ, Thắng ít khi cằn nhằn lúc chị có ca trực đêm phải về muộn. Họ sống với nhau chân thành, giản dị, hết lòng vì nhau, cùng nhau vượt qua mọi gian nan khiến ai cũng ngưỡng mộ. Dần dần, tích cóp được tý vốn, họ đã xây được ngôi nhà cấp bốn. Rồi kinh tế dần khá lên.
Thời gian trôi đi, ông trời thương cho họ sinh hạ được hai người con, một trai, một gái giờ đã lập gia đình và đều có công ăn việc làm phù hợp, một người sống chung với anh chị. Ngôi nhà ba thế hệ đầy ắp tiếng nói cười của bầy cháu. Niềm vui của họ chỉ đơn giản như vậy. Về hưu, cô Trinh mở một quán nước trà trước cửa nhà và làm thêm “nghề” trông giữ xe đạp, xe máy. Hàng ngày, anh Thắng sẵn sàng giúp đỡ cô bán hàng. Người ta nói: “Hãy đứng dậy trên đôi chân của mình”, nhưng với anh Thắng, có lẽ chiếc nạng gỗ đã thay thế đôi chân còn chính tình yêu của cô mới giúp anh đứng dậy. Anh Thắng thường bộc bạch với bạn bè mỗi khi gặp nhau: “Cô ấy đã chăm sóc tôi gần trọn cuộc đời, tôi cũng muốn được tự tay chăm lo cho cô ấy. Cuộc đời tôi có lẽ may mắn nhất là đã gặp được người vợ, người bạn tri kỷ này…”. Ngồi ở quán, anh Thắng hay xúc động kể cho mọi người nghe về cuộc đời của mình bằng những mảnh ký ức chắp vá. Mùa hè năm 1974, anh cùng hàng ngàn thanh niên trên khắp mọi miền Tổ quốc xung phong vào chiến trường miền Nam. Vừa nói, anh vừa chỉ cho bạn bè xem các vết sẹo chằng chịt trên cơ thể. Đôi chân bị cắt cụt. Hành trang trở về của người lính năm xưa là hai mảnh đạn trong đầu, một mảnh ở lưng. Vết thương ở đầu mỗi khi tái phát làm cho anh lúc nhớ, lúc quên. Chăm sóc các thương, bệnh binh nặng thời ấy ở Trại điều dưỡng Nghi Lộc có nhiều y, bác sĩ, hộ lý còn rất trẻ, trong đó có nữ y tá Trần Thị Trinh. Đó là một cô gái mảnh mai, xinh đẹp và cần mẫn. Anh không thể nhớ nổi những lúc lên cơn đau vật vã mình đã làm những gì, chỉ biết rằng sau những lần như thế, cô Trinh bị xây xước ở cổ tay. Khi tỉnh táo, Thắng mới biết những vết bầm xước của cô y tá là do anh gây ra. Những lúc ấy, lòng anh trào dâng một niềm biết ơn, thương cảm và day dứt. Còn đối với cô y tá hiền lành Trần Thị Trinh, mỗi lần bị các thương, bệnh binh cào cấu trong cơn kích động mạnh, chị không cảm thấy đau về cơ thể mình mà chỉ thấy đau quặn ở trong tim. Khó khăn, vất vả là thế, song chưa khi nào chị cảm thấy mệt mỏi hay nuối tiếc. Chị Trinh thường kể: Anh Thắng vốn là người hiền lành, ít nói, thương vợ con việc gì trong nhà cũng qua bàn tay anh ấy, nhưng những lúc vết thương tái phát thì bản tính lại thay đổi, không kiểm soát được... Những tháng năm chung sống với anh, những đêm thức trắng cùng chồng trải qua cơn đau vật vã do vết thương hành hạ… Nhiều khi bố mẹ xót xa khuyên chị nghỉ làm. Nhưng chị không đồng ý. Công việc ấy cũng là cách để tri tri ân những người có công với Tổ quốc…
Những cặp đôi tổ chức đám cưới cùng anh chị ngày ấy, nay người còn, người mất. Có những cặp đôi bỏ làng đi xây dựng kinh tế mới ở tận Gia Lai, Đăk Lăk, Kon Tum... Chỉ còn lại anh chị gắn bó với mảnh đất quê hương cho tới tận hôm nay. Khi đoàn chúng tôi đến trao quà nhân ngày Thương binh Liệt sĩ, chị Trinh xúc động nói: “Tôi sẽ dành phần còn lại của cuộc đời để sống ở đây, để được gần gũi chăm sóc chồng và cũng là để tri ân mảnh đất đã mang lại niềm hạnh phúc lớn lao cho cuộc đời mình…”.