Với giá trị văn hóa và lịch sử đặc biệt, đầu tháng 3/2010, 82 tấm bia Tiến sĩ tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám đã được tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu Thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Đến ngày 27/7/2011, 82 bia Tiến sĩ được công nhận là Di sản tư liệu Thế giới trên phạm vi toàn cầu.
Với vị trí và tầm quan trọng đặc biệt, ngày 10/5/2012, Quần thể di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám, trong đó có 82 tấm bia đá Tiến sĩ đã được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Di tích quốc gia đặc biệt.
Văn Miếu được dựng mùa thu năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ thứ 2 (1070) đời Lý Thánh Tông, ban đầu là nơi cúng tế thờ Khổng Tử, Chu Công, Tứ phối, Thất thập nhị hiền, bốn mùa cúng tế và là nơi hoàng thái tử đến học. Đến mùa hạ năm Bính Thìn, niên hiệu Anh Vũ Chiêu Thắng thứ nhất (1076) vua Lý Nhân Tông cho lập nhà Quốc Tử Giám, tuyển trong các văn thần lấy những người có văn học để học tại đó. Từ năm 1253, Vua Trần Thái Tông cho mở rộng Quốc Tử Giám và thu nhận cả con cái thường dân có học lực xuất sắc.
Đời vua Trần Minh Tông, Chu Văn An được cử làm quan Quốc Tử Giám Tư nghiệp (Hiệu trưởng) và thầy dạy trực tiếp của các hoàng tử. Đến năm 1370 Chu Văn An qua đời được Vua Trần Nghệ Tông cho thờ ở Văn Miếu bên cạnh Khổng Tử.
Sang thời Hậu Lê, Nho giáo rất thịnh hành. Vào năm 1484, Vua Lê Thánh Tông cho dựng bia Tiến sĩ của những người đỗ Tiến sĩ từ khoa thi năm 1442 đến 1779.
Đến đầu thời Nguyễn, vua Gia Long bãi bỏ trường Quốc Tử Giám ở Hà Nội, đổi nhà Thái Học làm nhà Khải Thánh để thờ cha mẹ Khổng Tử và xây dựng Khuê Văn Các ở trước Văn Miếu. Đầu năm 1947, giặc Pháp nã đạn đại bác làm đổ sập căn nhà, chỉ còn cái nền với hai cột đá và 4 nghiên đá.
Ngày 13/7/1999, thành phố Hà Nội khởi công xây dựng công trình nhà Thái Học trong khu Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Khu nhà Thái Học rộng 1.530 m2 trên nền đất cũ của Quốc Tử Giám sau Văn Miếu. Di tích lịch sử văn hoá Văn Miếu - Quốc Tử Giám có diện tích 54.331m2 gồm: Hồ Văn, vườn Giám và Nội tự được bao quanh bằng tường gạch vồ.
Các nhà nghiên cứu ngày nay đều thống nhất nhận định rằng quy mô, vị trí hiện tại của Văn Miếu - Quốc Tử Giám vẫn tương tự như thời mới xây dựng. Những lớp kiến trúc của Văn Miếu hiện còn đều là kiến trúc thời Hậu Lê và đầu triều Nguyễn. Bờ tường gạch bao quanh Văn Miếu - Quốc Tử Giám được xây bằng gạch vồ, loại gạch phổ biến thời Hậu Lê. Hồ Văn trước đây còn có tên là Minh Đường là nơi tụ khí huyệt, đảo Minh châu nơi thường diễn ra những buổi ngâm vịnh bình thơ của các văn nhân sĩ tử thời xưa. Ở cạnh trường học nên vườn Giám chính là nơi nghỉ ngơi hoặc diễn ra các sinh hoạt sau giờ học của các học trò Quốc Tử Giám. Quần thể kiến trúc được quy tụ trong một khuôn viên rộng rãi với năm khu chính nối tiếp nhau chủ yếu trên trục dọc: từ Văn Miếu môn đến Đại Trung môn, Khuê Văn các, Thiên Quang tỉnh, Vườn bia, khu Đại Thành điện, Đại Bái đường, Hậu cung và khu nhà Thái học.
Bố cục của toàn thể Văn Miếu như vậy muộn nhất là cũng có từ đời Lê (thế kỷ 15 - thế kỷ 18). Riêng Khuê Văn Các mới được dựng khoảng đầu thế kỷ 19, nhưng cũng nằm trong quy hoạch tổng thể vốn có của những Văn Miếu (như Văn Miếu ở Khúc Phụ, Trung Quốc, quê hương của Khổng Tử, có đủ Ðại Trung Môn, Khuê Văn Các, Ðại Thành Môn, Ðại Thành Ðiện, bia tiến sĩ...). Khuê Văn Các ở Văn Miếu Hà Nội thường là nơi tổ chức bình các bài văn thơ hay của các sĩ tử.
Người xưa đã xây dựng công trình Văn Miếu - Quốc Tử Giám thuận theo lẽ âm - dương - trời - đất và tự khẳng định chính là nơi hội tụ nhân tài, là một quần thể kiến trúc độc đáo nơi địa linh nhân kiệt. Khởi nguồn từ địa thế mở rộng tầm nhìn ra 4 phương 8 hướng, từ cõi hư vô suy xét khai thác ánh sáng vẻ đẹp của trời đất mà phục vụ cho sự học của con người - học làm người, tinh luyện văn hóa vật chất mà gây dựng văn hóa tinh thần nhằm tiến tới thành tựu tuyệt diệu cuối cùng của sự tu luyện học vấn một cách đạt thành.
Giá trị thẩm mỹ của kiến trúc Văn Miếu - Quốc Tử Giám không chỉ được tạo bởi không gian kiến trúc đột phá nhưng lại hòa quyện với không gian xung quanh nó mà hơn nữa là sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời, là thành phẩm của công trình kiến trúc vĩnh cửu trước thời gian. Đó là một hệ thống văn hóa tinh thần bao quanh kiến trúc, là sự kết hợp trọn vẹn của văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Hệ thống bia tiến sỹ Văn Miếu - Quốc Tử Giám
Trong khuôn viên di tích Văn Miếu - Quốc Tử Giám có một khu vườn từ Khuê Văn Các đến cửa Đại Thành thường gọi là vườn Bia. Có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ (81 bia Tiến sĩ triều Lê và 1 bia Tiến sĩ triều Mạc) dựng ở hai bên giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đều quay về phía giếng. Việc chạm khắc chữ Hán trên bia là một công trình nghệ thuật đặc sắc. Trán bia cong thường có hình hai rồng chầu mặt nguyệt, rồng được cách điệu rất tinh tế trở thành những đám mây uyển chuyển, sinh động. Diềm bia được trang trí hoa văn hình hoa lá cách điệu kết hợp với chữ triện. Đế bia hình rùa tạo hình vững chãi, bền chắc mang ý nghĩa trường thọ, vĩnh cửu. Hình tượng con rùa biểu thị cho sự trường tồn vĩnh cửu…
Giá trị và nét độc đáo của 82 bia Tiến sĩ chính là những bài văn khắc trên bia. Trên thế giới nhiều nước dựng bia, nhưng chỉ duy nhất Bia Tiến sĩ Văn Miếu có bài ký ghi lịch sử các khoa thi và triết lý của triều đại về nền giáo dục và đào tạo, sử dụng nhân tài. Những bài ký trên bia Tiến sĩ được viết bằng chữ Hán với những cách viết khác nhau, khiến cho mỗi tấm bia như một tác phẩm thư pháp. Những bài văn bia này phần lớn đều do những danh nhân văn hóa, trí thức lớn của đất nước soạn, nên về cơ bản là những tác phẩm vô giá, góp phần làm nên truyền thống văn hóa, giáo dục của Việt Nam.
Tham quan vườn Bia, chúng ta có thể tìm thấy tên tuổi của nhiều danh nhân từng được nhắc đến trong các sách sử Việt Nam như: nhà sử học Ngô Sĩ Liên - Tiến sĩ năm 1442 đã soạn bộ sách Đại Việt sử ký toàn thư; nhà bác học Lê Quý Đôn - Tiến sĩ năm 1752, tác giả của Đại Việt thông sử, Kiến văn tiểu lục, Vân đài loại ngữ…; nhà chính trị, ngoại giao lỗi lạc Ngô Thì Nhậm đỗ Tiến sĩ khoa 1775, đã giúp vua Quang Trung chiến thắng quân Thanh trong trận Ngọc Hồi - Đống Đa lịch sử… Điều đặc biệt, qua các tấm bia đá này, chúng ta không chỉ biết đến thân thế sự nghiệp của các sử thần Việt Nam mà chúng ta còn được hiểu hơn về mối quan hệ bang giao giữa các nước vùng Đông Nam Á.
Trong số 1.304 tiến sĩ được khắc tên trên 82 bia đá, có 225 vị từng được cử đi sứ sang Trung Quốc vào các triều Minh (1368-1644), triều Thanh (1644-1911). Lê Quý Đôn (1726-1784) đỗ tiến sĩ năm 1752, đã để lại nhiều ấn tượng khi đi sứ sang Trung Quốc. Ông đã tiếp xúc, giao lưu, trao đổi về văn chương, học thuật với các học giả, nhà thơ Trung Quốc và Triều Tiên. Tri thức và tài văn chương của Lê Quý Đôn được các sứ thần Triều Tiên và Trung Quốc ca ngợi.
Không chỉ là nguồn tư liệu phong phú phản ánh một giai đoạn lịch sử hơn 300 năm dưới triều Lê - Mạc, Bia Tiến sĩ Văn Miếu còn là bức tranh sinh động về việc tuyển dụng và đào tạo nhân tài độc đáo ở Việt Nam được thể hiện ở tư tưởng trị quốc dựa vào nhân tài của cha ông ta. Chế độ quân chủ tập quyền Việt Nam thời Lê rất trọng dụng nhân tài, coi “nhân tài là nguyên khí quốc gia”, là nguồn gốc sự hưng thịnh của đất nước. Điều này đã được thể hiện rõ ngay ở tấm bia đầu tiên (khoa 1442): “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo xây dựng nhân tài”. Tấm bia năm 1448 lại nhắc “Nhân tài đối với quốc gia quan hệ rất lớn” và “Phải có đào tạo sau mới có nhân tài”. Nhiều tấm bia sau cũng nhắc đi nhắc lại ý “nhân tài là nguyên khí quốc gia”. Các vị vua nhà Lê, nhà Mạc đã dựa vào Nho giáo, sử dụng tri thức Nho giáo để đào tạo và tuyển chọn nhân tài. Những điều trên đây cho thấy rằng, chủ trương phát triển giáo dục, trọng dụng nhân tài, đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước là một chủ trương được coi trọng hàng đầu, cực kỳ quan trọng đối với bất kỳ thời đại nào trong quá trình xây dựng và phát triển quốc gia cường thịnh.
Bia Tiến sĩ có tác động xã hội to lớn đối với người đương thời và hậu thế. Được ghi tên trên bia đá đó là niềm khích lệ lớn đối với việc học tập, rèn luyện để trở thành người có ích cho đất nước và xã hội. Bia Tiến sĩ cũng là biểu tượng và niềm tự hào của sự thành đạt và trí tuệ. Có thể thấy việc tổ chức UNESCO công nhận bia tiến sĩ Văn Miếu - Quốc Tử Giám là di sản tư liệu của quốc tế là một trong những sự kiện lớn và là niềm tự hào của toàn thể nhân dân thủ đô nói riêng và cả nước nói chung.
Văn Miếu - Quốc Tử Giám xưa là chốn "cửa Khổng sân Trình" là "Thánh đường của Nho học", nơi đào tạo và biểu dương nhân tài của đất nước; nay là một khu di tích lịch sử - văn hóa lớn nhất ở trung tâm Thủ đô, biểu trưng cho tiến trình văn hóa Việt Nam, với những hoạt động văn hóa, khoa học năng động của mình, đang góp phần to lớn vào công cuộc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho Thủ đô xứng đáng là viên ngọc "Ngàn năm văn hiến" của đất nước.
(Theo langvietonline.vn)