Tây Ninh một chiều tháng 6 bên dòng sông Vàm Cỏ Đông - Ảnh: Nguyễn Quang Vinh
Lữ khách ai đó một chiều ngang bến sông thơ, con sông đã mang nhiều huyền thoại và sử tích lưu danh truyền đời mà dừng chân ngắm trời non nước mới thấy cái thú tiêu dao của kẻ phong hồ quả cũng là không uổng. Về đây cảm nhận và khám phá con sông huyền thoại rồi lần theo dấu vết thăng trầm lịch sử của dòng sông Vàm Cỏ Đông từ cách nay mấy trăm năm ta thấy quả nhiên dòng sông này chất chứa trong mình nhiều điều rất ư thầm kín. Người xưa gọi là sông Quang Hóa hay Khê Lăng. Có lẽ thế nên trong phần giới thiệu về thổ nhưỡng sông núi của trấn Phiên An- Nam Việt thì sách Gia Định Thành Thông Chí của Trình Hoài Đức thời nhà Nguyễn chép rằng: “Ở thượng lưu sông Thuận An cách phía tây trấn 160 dặm rưởi. Phủ sở ở bờ phía Bắc sông lớn có người Trung Hoa và Cao Miên ở chung lẫn lộn làm ăn, có tuần ty coi thâu thuế lệ cước đồn và phòng giữ biên cảnh. Từ đây chảy 24 dặm rưởi có cửa sông Khê Lăng, 91 dặm rưỡi đến thủ sở Quang Phong giáp địa giới Cao Miên. Đây là con dường mà sứ thần Cao Miên sang cống hiến phải đi ngang qua. Dọc theo sông ruộng đất mới khẩn còn nhiều rừng rú. Lên hướng Tây chia làm 2 nhánh. Nhánh phia Bắc tục danh là Cái Bát đi thẳng ra Bắc 100 dặm chỗ cùng tuyền về đằng Bắc 100 dặm nữa là rừng Quang Hóa. Nhánh phía Nam tục gọi là sông Cái Cay đi lên hướng Tây hơn 100 dặm cũng cùng tuyền. Tới đây đều là đất rừng Quang Hóa liên tiếp nối dài…".
Nếu nói như vậy sông sông Quang Hóa ngày xưa và Vàm Cỏ ngày nay tính từ hợp lưu ở Tân Trụ đổ lên thì Vàm Cỏ Tây gọi là Cái Bát, Vàm Cỏ Đông gọi là Cái Cay. Tên gọi Cái Cay ấy nghe bằng âm Hán tự cổ có nghĩa gần giống như suối tóc hay tóc dài của người nữ phụ. Nếu quan sát sông Vàm Cỏ Đông của ngày hôm nay mà lấy cầu Gò Dầu làm trung tâm chia đôi nữa Thượng- Hạ lưu sông Vàm Cỏ Đông rồi phóng tầm mắt nhìn bao qua ra xa mới thấy bốn bề rộng mở với ngút ngàn màu xanh của đồng lúa và cây cối ven bờ. Chính cây cầu Gò Dầu bắc qua sông Vàm Cỏ này theo cư dân địa phương thì còn một cái tên gọi nữa nghe hơi huyền hoặc chút là cầu “Xóa Nợ”. Dân gian nói rằng mỗi năm có rất nhiều con bạc từ Việt Nam qua cửa khẩu Mộc Bài (Cách có mấy cây số) bên đất Cambodia chơi trò đen đỏ. Kẻ được thì ít người thua thì nhiều, có người thua quá cùng đường nghỉ quẩn khi về ngang qua sông Vàm Cỏ Đông trầm mình xuống đó để xóa đi món nợ khốn cùng. Trần gian có những điều bất công là thế, dòng sông vốn hiền hòa bốn mùa nước chảy xuôi dòng nuôi sống biết bao thế hệ, một ngày bỗng dưng thành nơi ai oán tương phùng cho âm dương cách biệt. Tháng sáu về những cơn mưa giữa mùa thường hay xuất hiện lúc sang chiều mang đến cái mát trong lành cho thời tiết khu vực. Từ cầu “Xóa Nợ” nhìn xuôi về hạ lưu là vùng đất giáp ranh của hai tỉnh Long An- Tây Ninh sông Vàm Cỏ như một dải lụa mềm ôm lấy hai triền bờ cỏ cây xanh mướt. Lâu lâu nước chảy xuôi dòng bị cản lại bởi các cầu cảng mọc ngay mép nước làm nơi trú ngụ cho tàu thuyền cập bến, những con thuyền xuôi ngược ngày đêm rẽ đôi sóng nước Vàm Cỏ là phương tiện trao đổi hàng hóa giao thương giữa các miền. Nhìn lên thượng lưu con sông bị thu hẹp tầm mắt bởi núi Bà Đen án ngữ, người ta nói thế núi và sông này giống như Long chầu Hổ phục mà tạo nên một vùng đất mang huyền tích về địa linh nhân kiệt nhiều đời. Bình thường trời sáng trong mặt sông lững lờ xuôi nước và những đám lục bình theo thuyền rẽ sóng lên xuống. Gặp khi trời nhiều mây mù cộng với gió nam từ biển thổi vào, hơi nước dưới mặt sông bốc lên tạo thành những đám vũ tích lững lờ lãng đãng như sương như khơi trước khi lên cao và vướng vào các sườn núi khu vực Bà Đen là thế. Có một thời những văn nhân theo bước phong hồ mà thường khi vẫn đắm mình vào con nước chiều lên xuống lúc hoàng hôn buông nắng để tạo ra những thi khúc sống mãi với thời gian về dòng sông huyền thoại này là có thực. Bài hát Lên Ngàn của nhạc sĩ Hoàng Việt và bài ca Vàm Cỏ Đông của Trương Quang Lục cũng bắt nguồn từ đây.