Trở thành thành viên của UNESCO (Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục của Liên hiệp quốc) cũng như tích cực tham gia thực hiện các công ước, chương trình, nghị quyết về văn hóa của tổ chức này cũng là cách thức để Việt Nam hội nhập với thế giới, chia sẻ những giá trị chung toàn cầu và phát huy sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế.
Trên cơ sở những tuyên bố của UNESCO, các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam, đã có nhiều sáng kiến, nhiều cách làm cụ thể để giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc. Trong đó, chính sách đối với nghệ nhân trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể (VHPVT) là một minh chứng.
1. Quan điểm của UNESCO về nghệ nhân trong lĩnh vực di sản VHPVT
Liên quan đến các nghệ nhân trong lĩnh vực di sản VHPVT có thể kể đến hai chính sách quan trọng của UNESCO, đó là Chương trình Hệ thống Báu vật nhân văn sống (1993) và Công ước về bảo vệ di sản VHPVT (2003).
Chương trình Hệ thống Báu vật nhân văn sống
Năm 1993, tại phiên họp lần thứ 142 của Hội đồng điều hành UNESCO, Ban chấp hành UNESCO đã ban hành Nghị quyết số 142 EX/18&48/1993/UNESCO khuyến nghị về việc thiết lập hệ thống Báu vật nhân văn sống. Đây là văn bản pháp lý hoàn chỉnh đầu tiên của UNESCO về chính sách đối với nghệ nhân thực hành di sản VHPVT. Bản hướng dẫn thiết lập hệ thống Báu vật nhân văn sống này được sửa chữa, chỉnh sửa bổ sung vào năm 2002.
UNESCO đưa ra định nghĩa, “Báu vật nhân văn sống là những người có kiến thức và kỹ thuật ở cấp độ rất cao, cần thiết cho việc biểu diễn hay sáng tạo các yếu tố của di sản văn hóa phi vật thể mà các quốc gia thành viên (của UNESCO) đã lựa chọn như một bằng chứng cho truyền thống văn hóa sống của mình và cho tinh thần sáng tạo của các nhóm, các cộng đồng và các cá nhân hiện diện trên đất nước mình” (1).
Theo quan điểm của UNESCO, căn cứ vào điều kiện cụ thể mà mỗi quốc gia có thể xây dựng các tiêu chí phù hợp đối với việc tôn vinh những người sáng tạo, thực hành, truyền dạy di sản VHPVT. Không nên có một khuôn mẫu cứng nhắc được áp dụng cho tất các quốc gia thành viên trong việc thiết lập hệ thống Báu vật nhân văn sống. Thậm chí, ngay trong phạm vi một nước, với những địa phương có nhiều loại hình di sản VHPVT cần được bảo vệ cũng có thể có những cách lựa chọn phù hợp.
Những người được công nhận là Báu vật nhân văn sống có thể là cá nhân hoặc nhóm người cùng nắm giữ bí quyết nghề, cùng tham gia trình diễn… Để xây dựng hệ thống này, cần phải thành lập một hội đồng chuyên gia với các nhiệm vụ quan trọng: điều tra, đánh giá, đề cử các loại hình di sản phi vật thể tiêu biểu, đề cử các cá nhân hay nhóm có khả năng được lựa chọn. Sau khi việc công nhận diễn ra, hội đồng có nhiệm vụ theo dõi các Báu vật nhân văn sống đã được công nhận, có thể đề xuất hủy bỏ sự công nhận này khi nghệ nhân không thực hiện nhiệm vụ hoặc không đáp ứng được các tiêu chí mà UNESCO đã đề ra.
Sau khi được công nhận, các nghệ nhân được hưởng một chế độ ưu đãi và tôn vinh của nhà nước nhằm duy trì và phát triển nghệ thuật. Bên cạnh đó, họ có nhiệm vụ đào tạo ra đội ngũ nghệ nhân kế cận, hợp tác để làm tư liệu, thường xuyên biểu diễn để phổ biến nghệ thuật đến với công chúng và để phát triển hơn nữa tri thức và kỹ năng của mình.
Trên cơ sở hệ thống Báu vật nhân văn sống đã được thiết lập, các quốc gia thành viên sẽ lựa chọn những nghệ nhân tiêu biểu, gắn với các loại hình di sản VHPVT đặc sắc cần được bảo vệ để trình lên Ban Thư ký của UNESCO. Ban Thư ký sẽ tổng hợp danh sách Báu vật nhân văn sống do các nước thành viên đệ trình, nếu phù hợp sẽ coi đó là danh sách thuộc phạm vi thế giới. Chương trình này nhằm khuyến khích các quốc gia thành viên chính thức công nhận những người mang truyền thống tài năng và những người thực hành, góp phần truyền kiến thức và kỹ năng của họ cho thế hệ trẻ.
Khi được vinh danh là Báu vật nhân văn sống, được hưởng sự ưu đãi nhất định của chính quyền, các nghệ nhân phải cam kết không ngừng trau dồi kỹ năng, kỹ thuật; chuyển giao, truyền dạy di sản cho thế hệ sau; cho phép nhà nước tư liệu hóa các di sản VHPVT mà nghệ nhân đang nắm giữ; giới thiệu, quảng bá di sản ra công chúng. Nếu không thực hiện những cam kết này, danh hiệu có thể bị hủy bỏ (2). Hưởng ứng chương trình của UNESCO, đã có nhiều nước triển khai thực hiện hướng dẫn về việc xây dựng hệ thống Báu vật nhân văn sống ở quốc gia mình.
Nhìn chung, hệ thống Báu vật nhân văn sống mà UNESCO khởi xướng là chương trình có ý nghĩa tích cực trong việc khẳng định vai trò của các chủ thể di sản VHPVT. Đó là một trong các biện pháp để thu hút sự quan tâm của chính quyền, cộng đồng đối với việc bảo tồn di sản VHPVT, cũng như khuyến khích, động viên các nghệ nhân sáng tạo, thực hành, phổ biến các giá trị văn hóa độc đáo đến với cộng đồng và truyền dạy cho thế hệ trẻ. Mặc dù, Chương trình Hệ thống Báu vật nhân văn sống trong suốt quá trình tồn tại (1992-2003) chưa phải là một danh hiệu mang tính toàn cầu nhưng nó đã thúc đẩy các quốc gia xây dựng các chính sách để phát huy vai trò của các nghệ nhân di sản VHPVT.
Bên cạnh đó, hàng loạt các chương trình, dự án, tuyên bố khác của UNESCO về di sản VHPVT như: Tuyên bố tại Hội nghị Modiacult (Mexico, 1982), Khuyến nghị về bảo vệ Văn hóa truyền thống và văn hóa dân gian (1989), Báo cáo Sự đa dạng sáng tạo của chúng ta (1996), Chương trình Tuyên dương kiệt tác di sản truyền khẩu và phi vật thể của nhân loại (1997)… là những bước đi quan trọng tạo cơ sở cho việc ra đời Công ước quốc tế về bảo vệ Di sản VHPVT năm 2003. Khi Công ước 2003 ra đời, Chương trình Hệ thống Báu vật nhân văn sống cũng chính thức chấm dứt.
Công ước về bảo vệ di sản VHPVT
Tại phiên họp thứ 32 của Đại hội đồng Tổ chức UNESCO diễn ra ở Paris (29-9 đến 17-10-2003), Công ước về bảo vệ di sản VHPVT được thông qua (đây là một trong bảy Công ước về văn hóa UNESCO đã phê chuẩn từ khi thành lập đến nay). Công ước chính thức có hiệu lực từ ngày 20-4-2006 khi có đủ số lượng quốc gia theo quy định tham gia và tính đến tháng 11-2019, Công ước đã có 178 quốc gia và vùng lãnh thổ tham gia. Việt Nam là thành viên thứ 22 tham gia Công ước vào tháng 9-2005.
Công ước ra đời là công cụ pháp lý quan trọng và là cơ sở quy định hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản VHPVT của các quốc gia thành viên. Công ước có mục đích bảo vệ di sản VHPVT; đảm bảo sự tôn trọng đối với di sản VHPVT của các cộng đồng, nhóm người và cá nhân có liên quan; nâng cao ý thức ở cấp địa phương, quốc gia và quốc tế về tầm quan trọng của di sản VHPVT để từ đó đảm bảo sự tôn trọng lẫn nhau giữa các cá nhân, nhóm người và cộng đồng; thúc đẩy sự hợp tác và hỗ trợ quốc tế thông qua các chương trình hỗ trợ về chuyên gia, trao đổi học thuật, chia sẻ kinh nghiệm, trình diễn, giới thiệu di sản VHPVT của các cá nhân, nhóm người và giữa các quốc gia (3).
Điều 2 của Công ước nêu rõ: “Di sản VHPVT được hiểu là các tập quán, các hình thức thể hiện, biểu đạt, tri thức, kỹ năng và kèm theo đó là những công cụ, đồ vật, đồ tạo tác và các không gian văn hóa có liên quan mà các cộng đồng, các nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân, công nhận là một phần di sản văn hóa của họ. Được chuyển giao từ thế hệ này sang thế hệ khác, di sản VHPVT được các cộng đồng và các nhóm người không ngừng tái tạo để thích nghi với môi trường và mối quan hệ qua lại giữa cộng đồng với tự nhiên và lịch sử của họ, đồng thời hình thành trong họ một ý thức về bản sắc và sự kế tục, qua đó khích lệ thêm sự tôn trọng đối với sự đa dạng văn hóa và tính sáng tạo của con người” (4). Như vậy, “cộng đồng”, “nhóm người”, “các nhóm người” trong một số trường hợp là một phần của di sản VHPVT. Cho nên, mặc dù công ước không đề cập đến các nghệ nhân thực hành di sản VHPVT, nhưng việc đề cập đến các chủ thể liên quan cũng bao hàm ý nghĩa nhấn mạnh đến vai trò của những người thực hành/ chủ sở hữu di sản. Chính vì vậy, Công ước dành nhiều nội dung để khuyến cáo các quốc gia thành viên tham gia phải có chính sách đối với đội ngũ này. Điều 15 của công ước nhấn mạnh: “Trong khuôn khổ các hoạt động bảo vệ di sản VHPVT, mỗi quốc gia thành viên cần phải nỗ lực để đảm bảo khả năng tham gia tối đa của các cộng đồng, nhóm người và trong một số trường hợp là các cá nhân đã sáng tạo, duy trì và chuyển giao loại hình di sản này và cần phải tích cực thu hút họ tham gia vào công tác quản lý” (5).
Một trong những thay đổi đáng kể khi Công ước được ban hành đó là việc không tiếp tục duy trì “danh hiệu” báu vật nhân văn sống, “danh sách” các cá nhân tiêu biểu thực hành di sản VHPVT. Thay vào đó là việc tôn vinh các di sản dưới góc độ được nắm giữ bởi tập thể, cộng đồng. Tuy nhiên, Công ước cũng không bác bỏ vai trò của cá nhân như một nghệ nhân nắm giữ, thực hành quan trọng nhất.
2. Chính sách của Việt Nam đối với nghệ nhân di sản VHPVT
Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, Đảng và Nhà nước luôn dành sự quan tâm đặc biệt cho văn hóa nói chung, cho công tác bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc nói riêng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1998) khẳng định: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Hết sức coi trọng bảo tồn, kế thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn hóa cách mạng, bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” (6). Bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc được xác định là một trong mười nhiệm vụ trọng tâm để xây dựng nền văn hóa dân tộc trong thời kỳ đổi mới.
Nghị quyết số 33-NQ/TW về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước (2014) tiếp tục nhấn mạnh tầm quan trọng và cách thức bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa: “Huy động sức mạnh của toàn xã hội nhằm bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống, khích lệ sáng tạo các giá trị văn hóa mới, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, làm giàu văn hóa dân tộc. Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch. Phục hồi và bảo tồn một số loại hình nghệ thuật truyền thống có nguy cơ mai một. Phát huy các di sản được UNESCO công nhận, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam” (7).
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa… Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu” (8).
Để cụ thể hóa các quan điểm của Đảng về bảo tồn, phát huy di sản trong thời kỳ mới, hệ thống luật pháp về di sản văn hóa được xây dựng và ban hành. Năm 2001, Quốc hội nước ta đã thông qua Luật Di sản văn hóa, Luật đã được sửa đổi, bổ sung vào năm 2009, 2013.
Điều 26 Luật Di sản văn hóa (sửa đổi, bổ sung năm 2009) quy định: “Nhà nước tôn vinh và có chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân có tài năng xuất sắc, nắm giữ và có công bảo vệ, phát huy giá trị di sản VHPVT. Ngoài các danh hiệu tôn vinh Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú thì những người có công trong việc bảo vệ và phát huy giá trị di sản VHPVT còn được tạo điều kiện và hỗ trợ kinh phí cho hoạt động sáng tạo, trình diễn, trưng bày, giới thiệu sản phẩm của nghệ nhân. Cụ thể là được hỗ trợ kinh phí và tạo điều kiện thuận lợi về không gian, mặt bằng để tổ chức các hoạt động truyền dạy, sáng tạo, trình diễn, trưng bày, giới thiệu sản phẩm; được giảm hoặc miễn thuế đối với hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản VHPVT theo quy định của pháp luật về thuế. Đối với những nghệ nhân đã được phong tặng danh hiệu nhưng hoàn cảnh khó khăn, thu nhập thấp sẽ được Nhà nước trợ cấp sinh hoạt hằng tháng cũng như hưởng một số ưu đãi khác” (9).
Ngày 7-8-2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định ban hành Nghị định 62/2014/NĐ-CP quy định về xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản VHPVT. Đối tượng của Nghị định này chính là những công dân Việt Nam đang nắm giữ, truyền dạy và phát huy giá trị di sản VHPVT thuộc các loại hình: tiếng nói, chữ viết; ngữ văn dân gian: nghệ thuật trình diễn dân gian; tập quán xã hội và tín ngưỡng; lễ hội truyền thống; tri thức dân gian (10).
Ngày 28-10-2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị định 109/2015/NĐ-CP về việc hỗ trợ đối với Nghệ nhân dân dân, Nghệ nhân ưu tú có thu nhập thấp, hoàn cảnh khó khăn. Hằng tháng, họ sẽ được Nhà nước trợ cấp các mức 1.000.000 đồng, 850.000 đồng hoặc 700.000 đồng tùy hoàn cảnh cụ thể. Bên cạnh đó, Nhà nước còn hỗ trợ bảo hiểm y tế và chi phí mai táng cho các đối tượng khi qua đời.
Từ khi Nghị định 62/2014/NĐ-CP ra đời đến nay, đã có 2 đợt xét tặng danh hiệu trong lĩnh vực di sản VHPVT (năm 2015 và năm 2019) với 1.253 nghệ nhân, trong đó có 66 Nghệ nhân dân dân và 1.187 Nghệ nhân Ưu tú (11). Việc xét tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân và Nghệ nhân ưu tú trong lĩnh vực di sản VHPVT lần thứ ba dự kiến sẽ hoàn thành trong năm 2021. Việc tôn vinh các nghệ nhân thể hiện thái độ trân trọng của Nhà nước, cộng đồng đối với tài năng và những cống hiến của các cá nhân trong sự nghiệp gìn giữ, trao truyền giá trị di sản văn hóa của dân tộc. Sự quan tâm kịp thời của Nhà nước, cộng đồng sẽ góp phần khơi dậy ngọn lửa nhiệt huyết, thổi bùng tình cảm và trách nhiệm của các nghệ nhân đối với việc bảo tồn những giá trị văn hóa dân tộc.
Chính sách của Nhà nước đối với nghệ nhân trong lĩnh vực di sản VHPVT không chỉ tạo động lực cho cá nhân các nghệ nhân trong nỗ lực gìn giữ và trao truyền di sản văn hóa mà nó còn là những gợi mở với nhiều địa phương trong việc chủ động phát huy giá trị các nguồn lực “nhân văn sống” của mình. Nhận thức vai trò của các nghệ nhân thực hành di sản VHPVT, bên cạnh việc thực hiện chính sách hỗ trợ của Nhà nước, một số chính quyền địa phương cũng đã chủ động, linh hoạt trong việc hỗ trợ cho các hoạt động bảo tồn di sản VHPVT. Ví dụ, HĐND tỉnh Vĩnh Phúc ban hành Nghị quyết số 12/2020/NQ-HĐND về hỗ trợ đối với nghệ nhân lĩnh vực di sản VHPVT và hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các câu lạc bộ dân ca tiêu biểu tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2021-2025. Đối với những nghệ nhân là công dân tỉnh Vĩnh Phúc được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú, ngoài việc được hưởng các trợ cấp theo các quy định chung của Nhà nước còn được tỉnh hỗ trợ việc thực hành truyền dạy di sản VHPVT. Còn đối với các câu lạc bộ dân ca tiêu biểu, tỉnh sẽ hỗ trợ kinh phí mua sắm trang thiết bị để luyện tập và tham gia các hoạt động liên hoan, hội diễn, giao lưu… (12). Ngoài ra, việc Nhà nước tôn vinh các nghệ nhân di sản VHPVT sẽ nâng cao nhận thức của cộng đồng về việc gìn giữ di sản VHPVT cũng như lan tỏa giá trị của chính các di sản VHPVT đó. Từ đó, các tổ chức, cá nhân sẽ biết đến nhiều hơn giá trị của di sản, vẻ đẹp của những con người thực hành di sản. Trong một chừng mực nhất định, đây sẽ là nguồn lực tiềm năng để phát triển du lịch văn hóa cộng đồng, một trong những hình thức du lịch rất được ưa chuộng hiện nay. Hội nghị về Bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa Việt Nam vì sự phát triển bền vững do Bộ VHTTDL tổ chức ngày 27-7-2018 ở Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã khẳng định: “Di sản không phải là di sản chết mà phải đóng góp vào phát triển bền vững. Như vậy, chúng ta có nhiệm vụ làm di sản luôn hồi sinh và tồn tại có ích. Để phát huy giá trị di sản phi vật thể cần tôn vinh các nghệ nhân và coi họ chính là báu vật sống của quốc gia. Giải quyết hài hòa lợi ích giữa bảo tồn và phát triển, gìn giữ di sản và phát triển du lịch” (13).
Báu vật nhân văn sống hay nghệ nhân di sản VHPVT là những cách gọi khác nhau để vinh danh những người có tài năng, kỹ năng, kỹ thuật thuần thục trong thực hành, lưu giữ, phổ biến, truyền dạy di sản VHPVT. Chính sách của UNESCO đối với những nghệ nhân di sản VHPVT vừa thể hiện tinh thần khoa học, vừa thể hiện tinh thần nhân văn, gia tăng cơ hội cho các giá trị văn hóa truyền thống sống với cộng đồng, sống với thời gian. Từ những gợi mở của UNESCO, Việt Nam cũng như nhiều thành viên khác đã có những chính sách, những chương trình cụ thể để bảo tồn văn hóa dân tộc, góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa của nhân loại. Với những nỗ lực của Nhà nước, của các cộng đồng, chắc chắn trong thời gian tới, chính sách tôn vinh nghệ nhân di sản VHPVT sẽ tiếp tục được hoàn chỉnh, phát huy hiệu quả trong đời sống thực tiễn; trở thành động lực để thúc đẩy sự cống hiến của các nghệ nhân di sản VHPVT, góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
1. UNESCO, Guilines for the Establishment of National “Living Human Treasure” systems (Hướng dẫn Thiết lập Hệ thống “Báu vật nhân văn sống” cấp quốc gia)”, trích trong Bảo tồn và Phát huy Di sản Văn hóa phi vật thể ở Việt Nam, Viện Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2007, tr.398.
2. Phạm Cao Quý, Nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2021, tr.127.
3, 4, 5. UNESCO, Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể, bản dịch, ich.unesco.org, 2013.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1998, tr.56.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr.34.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.135.
9. Luật Di sản văn hóa năm 2001 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2009, tr.13-14.
10. Nghị định quy định về xét tặng danh hiệu “Nghệ nhân nhân dân”, “Nghệ nhân ưu tú” trong lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể, dsvh.gov.vn, 2014.
11. Phạm Cao Quý, Nhận diện nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể, baovanhoa.vn, 16-7-2020.
12. Nga Hải, Chính sách hỗ trợ nghệ nhân lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể và hỗ trợ kinh phí hoạt động cho các CLB dân ca tiêu biểu trên địa bàn tỉnh, vinhphuc.gov.vn, 23-12-2020.
13. Hà Thanh Giang, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc dự Hội nghị bảo tồn, phát huy di sản văn hóa Việt Nam, nhandan.vn, 27-7-2018.