Gần 30 năm làm báo, anh đã viết hàng nghìn bài báo mang phong cách riêng biệt, có chất lượng cao, có sự ảnh hưởng và tác động đến đời sống xã hội và con người nơi anh đang sinh sống. Ngoài giải báo chí của tỉnh Quảng Trị, Đào Tâm Thanh đã nhiều lần nhận được các giải báo chí quốc gia, giải báo chí chuyên ngành của Trung ương. Nhà báo Đinh Như Hoan đã đánh giá rất cao về bút lực của Đào Tâm Thanh: “Thời tôi ở Báo Quảng Trị, cùng với Nguyễn Hoàn, Nguyễn Tiến Đạt, Đào Tâm Thanh tỏ ra là một trợ thủ đắc lực và đa năng của ban biên tập. Anh viết rất nhanh và viết được trên nhiều lĩnh vực từ chính trị, kinh tế đến xã hội và văn hóa, văn nghệ”. Không những ở lĩnh vực báo chí, mà còn ở địa hạt văn chương, Đào Tâm Thanh cũng đã thể hiện được tài năng, bản lĩnh và trí tuệ của mình qua các bút ký, ghi chép.
Những tác phẩm anh viết ra đều được đăng ở các báo, tạp chí địa phương, Trung ương và được bạn đọc đón nhận. Tác phẩm của Đào Tâm Thanh có sức truyền cảm mạnh mẽ và gây xúc động sâu sắc đối với bạn đọc bởi những vấn đề có tính thời sự nóng hổi; sự am hiểu sâu sắc về văn hóa, lịch sử và đời sống con người; về những việc, những người, những miền quê nhỏ bé, bình thường cùng với chất văn trong sáng, giản dị, uyển chuyển. Đáp ứng sự mong đợi của độc giả cũng như sự động viên của bạn bè văn nghệ, Đào Tâm Thanh đã quyết định chọn một số tác phẩm tiêu biểu trong số hàng nghìn tác phẩm đã đăng để in thành cuốn sách, với tựa đề Chuyện làng, do Nhà Xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2006. Tác phẩm đầu tay vừa mới trình làng đã thu hút được bạn đọc gần xa trong và ngoài nước, được khen ngợi và đánh giá khá cao. Đúng như tên của tác phẩm, hơn hai mươi bài viết trong Chuyện làng đều xoay quanh đề tài làng quê. Qua những trang viết của Đào Tâm Thanh, độc giả sẽ hiểu hơn về mảnh đất và con người Quảng Trị với những tên đất, tên làng, những tên người đã trở thành những địa danh nổi tiếng, anh hùng, bất tử. Trong bài viết Người thích kể chuyện làng, sau khi điểm qua nội dung cũng như văn phong của tác giả tập sách, nhà báo Đinh Như Hoan đã khẳng định: “Trong văn Thanh luôn có xu hướng… về làng.
Dù ở đề tài nào, lĩnh vực nào, hễ có dịp là Thanh lại lấy ý tứ, hình ảnh, ngôn từ làng quê để thể hiện tư tưởng tác giả. Và cũng chính vì vậy, mà bạn đọc bài của Đào Tâm Thanh, người ta dễ cảm tình như người mãi lăn lóc giữa chốn phố phường bỗng được bước chân trần trên vệ cỏ đường đê và hít hà mùi khói rơm lam chiều trong nỗi nhớ cố hương. Thế nên khi cầm trên tay cuốn Chuyện làng, tôi đã không bất ngờ. Không bất ngờ nhưng vẫn băn khoăn: Vì sao Đào Tâm Thanh hay nói chuyện làng và chuyện làng mà sao nói hay đến thế?”. Nhà báo Lê Đức Dục trong bài viết Những dấu yêu trong trí nhớ ruộng đồng cũng có một đánh giá rất chính xác và thú vị: “Tập sách cũng cho bạn đọc biết anh là người đi nhiều miền đất nước… Nhưng những dòng chan chứa ân tình vẫn là những dòng về quê nhà. Tôi thích cái cách anh tả về mùa gặt của quê nhà trong bút ký Chuyện làng, nếu không có niềm yêu thương tha thiết với bùn đất, không có một sự tri ân với hạt thóc sẽ không thể nào viết được những dòng chữ lay động như anh đã viết…”. Nhà báo Ngô Nguyên Phước trong bài viết Đất và người Quảng Trị qua Chuyện làng cũng cho rằng: Đề tài và cảm hứng chủ đạo xuyên suốt của tác phẩm chính là chuyện làng, đó là “những trang viết thấm đẫm tình cảm đất đai, mùa màng, ruột thịt”.
Với một bút lực dồi dào, cần mẫn trên ruộng chữ, Đào Tâm Thanh đã tiếp tục sinh hạ đứa con thứ hai của mình với tập bút ký, phóng sự, ghi chép tựa đề Hạt gạo có chân, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2011. Ba mươi ba bút ký, phóng sự, ghi chép trong cuốn sách vẫn tiếp nối dòng chảy mạch nguồn về đề tài chuyện làng. Qua lăng kính của Đào Tâm Thanh, chuyện làng lần này lại có sự mở rộng biên độ trong việc đi sâu khám phá những lớp trầm tích về lịch sử, văn hóa và con người Quảng Trị một cách sâu sắc và phong phú, đầy hơi thở cuộc sống mới, đem đến cho người đọc nhiều câu chuyện mới mẻ, giàu tính nhân văn. Đúng như nhà văn Hồ Đăng Thanh Ngọc trong bài viết Hạt gạo sử thi đã khẳng định chủ đề và cảm hứng của tập sách vẫn “chủ yếu viết về đất và người Quảng Trị, như là những “hạt gạo có chân” dắt người đọc theo chuyến hành trình về quá khứ, về cội nguồn, về những nhân dáng hào hùng một thời chưa xa. Ở đó, trên chuyến tàu đầy chiêm nghiệm sâu lắng và cảm xúc thăng hoa của tác giả, chúng ta gặp lại những vùng đất, những con người không hề xa lạ… Ví như chuyện gió Lào, gần như chưa ai viết về gió Lào thú vị như thế… Hay như việc khẳng định “Cau khô và rau má - biểu tượng can trường của người Cam Lộ”. Lâu nay người ta nhắc đến Quảng Trị với các món đặc sản cháo bột, lòng sả, chưa nghe ai nói như Đào Tâm Thanh…”. Cùng một hướng tiếp cận nhưng Lê Văn Thê trong bài viết Đào Tâm Thanh với đất quê, người quê đã lý giải về nguyên nhân tác giả của Hạt gạo có chân trung thành với đề tài làng quê - mảnh đất và con người Quảng Trị là vì “cái tình sâu nặng với quê hương, nơi anh sinh ra, nuôi anh lớn bằng nắm rau mạ hái, con cua đồng mạ bắt, nơi Nhân dân Quảng Trị cho anh niềm tự hào được làm người Quảng Trị…”.
Đọc các tác phẩm này, độc giả sẽ yêu mến, cảm phục cán bộ, chiến sĩ hải quân chịu nhiều gian khổ, mất mát lớn lao cả về tinh thần lẫn vật chất, gác lại tình cảm riêng tư, ước mơ hoài bão, khát vọng lớn lao của tuổi trẻ để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, chống chọi với thiên nhiên khắc nghiệt đầy thử thách và gian lao để cho Nhân dân giữa muôn trùng sóng vỗ yên tâm bám biển làm ăn. Cơn bão số 8/1998 đã đổ bộ vào khu vực nhà giàn DK1/16 Phúc Nguyên, trong thời khắc hiểm nguy, giữa cái sống và cái chết chỉ trong gang tấc nhưng các cán bộ, chiến sĩ vẫn tỏ rõ một tấm lòng trung thành vô hạn đối với Tổ quốc, với Đảng, với Nhân dân cũng như phát huy bản chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội, quân chủng anh hùng, quyết bám trụ đến cùng. Và rồi cơn bão tố quá mạnh, đã quật đổ nhà giàn ngay sau đó, cướp đi 3 cán bộ trẻ trung, đầy nhiệt huyết là Đại úy, Chỉ huy trưởng nhà giàn Vũ Quang Chương, Chuẩn úy chuyên nghiệp Lê Đức Hồng, Chuẩn úy chuyên nghiệp Nguyễn Văn An đã anh dũng hy sinh. Các anh đã vĩnh viễn hóa thân vào sóng nước đại dương,… Thượng úy Phạm Tảo, Thượng úy chuyên nghiệp Trần Văn Là, Chuẩn úy chuyên nghiệp Lê Tiến Cường, chiến sĩ Tạ Ngọc Tú, Hồ Văn Hiền,… chấp hành nghiêm mệnh lệnh, dũng cảm hy sinh thân mình tìm kiếm, cứu vớt đồng đội bị nạn, bất chấp hiểm nguy khôn lường”(tr.34). Các anh là tấm gương tiêu biểu, kiên cường, quả cảm, thương yêu đồng chí, đồng đội; cao đẹp, thủy chung, sáng ngời phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, người chiến sĩ hải quân trong thời kỳ mới.
Từng ngày, từng ngày một, cây vật vã lớn lên, chật vật thích nghi rồi khó nhọc đẻ nhánh, đâm chồi”; “đã trồng và phát triển trên các đảo nổi của mình nhiều loại cây nước lợ, một số loài cây ăn trái, rau xanh mà trước kia vốn chỉ sinh trưởng ở đất liền,… những cây muống biển phủ xanh bát ngát trên những triền cát đến cây bão táp, biểu tượng của sự hồi sinh trên đảo; từ cây phong ba, được mệnh danh là “chúa tể của các loại cây đến cây bàng vuông, biểu tượng của Trường Sa, từ cây tra (nho biển), cây mù u, rau dền tía, mồng tơi cho đến bầu bí, cải mầm,…”(tr.17).
Nhìn lại quá trình sáng tác, độc giả dễ nhận ra cảm hứng chủ đạo trong văn của Đào Tâm Thanh chính là cảm hứng về làng - mảnh đất nơi anh sinh ra, dưỡng nuôi khôn lớn, trưởng thành. Đào Tâm Thanh có lần tâm sự rằng: “Thế hệ của chúng tôi đi ra từ làng quê, cần mẫn cóp nhặt từng con chữ ở các trường học lớn, viết ra, rồi gửi về lại nông thôn như là một sự tri ân nơi mình sinh ra, được dưỡng dục, được bồi đắp niềm vui sống và thấm thía tình yêu quê cha đất tổ muôn đời”. Xu hướng về làng vì thế luôn hiện diện trong tác phẩm của Đào Tâm Thanh, từ Chuyện làng đến Hạt gạo có chân và đã trở lại Về giữa đất trời Trường Sa.
Đọc các bút ký, phóng sự, ghi chép Hoa trôi về phía nụ cười; Đông Hà - bình dị những làng, thênh thang góc phố; Thao thức hương chiêm; Cùng một hướng nhìn giữa đất trời Thành Cổ; Đi nhanh cho kịp xem tranh ở Nghĩa trang Trường Sơn; Về chợ Phiên nghe tiếng làng tôi; Cam Lộ, rưng rưng màu đất; Mùa cam trên vùng đồi Hải Phú; Mỹ Thủy, nơi chân trời gần lại;... độc giả thấy trong từng trang văn ngồn ngộn, thấm đẫm những hình ảnh, những sắc màu của quê hương và con người Quảng Trị - mảnh đất nghèo khó nhưng hết mực ân tình, thủy chung. Đó là những anh bộ đội Cụ Hồ năm xưa như vị tướng già trong Hoa trôi về phía nụ cười, cựu phóng viên chiến trường Đoàn Công Tính trong Cùng một hướng nhìn giữa đất trời Thành Cổ,... chân chất, bình dị nhưng đầy lòng quả cảm, can trường khí phách trong lửa đạn, mưa bom, ân tình nặng nghĩa với đồng đội, đồng chí một thời chiến đấu anh dũng, hy sinh, nằm lại giữa lòng đất trời Thành Cổ, Trường Sơn. Những nông dân trong Thao thức hương chiêm sống trên cù lao ốc đảo Duy Phiên, Dương Xuân, Hà La ở xã Triệu Phước luôn thao thức, lo âu vì chốn ở, nơi ăn qua biến thiên dâu bể nằm lọt thỏm giữa ba bề sóng nước. Dẫu gian khó, khổ ải nhưng người dân nơi đây vẫn không chịu lùi bước, không bỏ làng tha hương cầu thực, trái lại họ bám đất, bám làng, chinh phục, ứng phó, cải tạo thiên nhiên, từ đó cuộc sống của người dân nơi đây có sự đổi thay, đi lên. Góp nên thành quả đó, việc tìm ra một loại giống lúa - sau này có tên gọi là gạo huyết rồng của người dân, canh tác được trên đất ngập mặn là cả một thành quả to lớn, là một niềm tự hào của người dân Triệu Phước. Bởi “tiềm ẩn bên trong hạt gạo chiêm đỏ ấy, là cái khí lực của làng quê thuần hậu, hơi thở mạnh mẽ, sâu bền của cuộc chinh phục thiên nhiên, của cuộc sống cần lao mà dân làng đã xây đắp và hun đúc từ thế hệ này qua thế hệ khác,...”(tr. 87-88). Đó là, hình ảnh chợ Phiên Cam Lộ cũng đã trở thành nét văn hóa đặc sắc của người làng quê Cam Lộ, đã đi vào lịch sử, văn chương qua câu ca ngọt lịm sự mời gọi thiết tha, mặn nồng “Chợ đông một tháng sáu phiên/Không đi thì lỡ lời nguyền với em”, và đã chắp cánh qua những ca từ thật đẹp, mượt mà của nhạc sĩ Thanh Ngọc: “Một tháng chợ mấy phiên/Mà lòng anh thêm nhớ/Anh thêm thương trong lòng/Đường quê lá nghiêng che/Gió nâng vành nón, nắng vương vương má hồng,...”. Đó là, hình ảnh làng quê Cam Lộ trong Cam Lộ, rưng rưng màu đất - một miền quê khí hậu khắc nghiệt, đất đai khô cằn, sỏi đá và một thời bị san thành bình địa của chiến tranh. Nhưng giờ đây, miền quê ấy đã trở thành “vương quốc” của chè tươi, tiêu nồng, mít nguồn, gạo trắng, nước trong, cây trái bốn mùa và lòng người thuần hậu”(tr.110). Đó còn là, hình ảnh Đông Hà trong Đông Hà bình dị những làng, thênh thang góc phố với những trăn trở, gập ghềnh từ làng hoang vắng, thưa thớt, thâm u, đìu hiu vươn lên thành phố khang trang, bề thế, sôi động, an hòa. Có được những bút ký, phóng sự về làng quê sinh động, thuyết phục, đi vào trái tim bạn đọc như thế, bởi Đào Tâm Thanh đã có sự gắn bó, gạn lọc được những nét độc đáo từ những cảm nhận chân thật, trực tiếp sống giữa bộn bề của cuộc sống, từ những vỉa tầng văn hóa của miền quê nơi anh sinh ra, lớn lên và trưởng thành.
Đến với tác phẩm Theo chân Bác trên dặm dài xuyên Á độc giả như được hòa mình trong một cuộc hành trình dài, ngắm những cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, phố xá đông vui, tấp nập, văn hóa đa dạng của các nước bạn Lào, Thái Lan... Đến với Nakhon Phanom, nơi có những “đại lộ thẳng tắp, rừng cây xanh như tràn cả ra tận lề đường, qua những làng thôn yên ả và những khu mua sắm, siêu thị sầm uất”(tr.208). Đến với bản Mạy, một thời Bác Hồ đã từng sống và hoạt động cách mạng nay vẫn còn lưu giữ nhiều kỷ vật của Bác như “đứng giữa một khu nhà vườn thuần Việt tĩnh lặng của xứ Huế. Đất mát lạnh bờ tre trúc đổ bóng, chùm hoa dâm bụt cháy lên trong nắng trưa và hàng cau vươn cành lá như những chiếc lược chải vào mây trời xanh ngắt”(tr.210). Đặc biệt là, được thưởng thức bữa cơm Việt sâu nặng nghĩa tình với “bát canh rau tập tàng, quả cà pháo giòn tan, có cả vả và quả chuối non chấm ruốc ớt tươi cay đến xé lưỡi”, hay “bát miến lươn, cháo cá tràu nấu bột để giữ mãi cái hương vị xứ sở”(tr.212). Độc giả còn ấn tượng hơn trong Cung thanh bên dòng Mê Kông có nhiều đoạn văn mang đậm chất thơ, câu chữ khá trau chuốt, ấn tượng sâu sắc. Đến với Sa vẳn như “trở về ngôi nhà thân thuộc của chính mình. Thân thuộc bởi phố vẫn thế, trầm mặc, an hòa trong những ô bàn cờ dọc ngang con đường nhỏ nhắn như lối vào nhà ai đó thân quen lắm. Những ngôi chùa vẫn thâm nghiêm quấn quýt trong mùi hương hoa dại, cánh hoa đã xong chức phận một đời hoa, dệt một tấm thảm trắng ngà trên sân chùa rợp bóng cây và bóng người xa đã xa”(tr.216). Đến với dòng sông Mê Kông, thì “vẫn thản nhiên chảy giữa đôi bờ phì nhiêu cây cỏ, ấm sáng những mùa màng và tầng tầng phố xá”(tr.216).
Qua Viêng Chăn ăn phở Hải Lăng cũng là một bút ký khá thú vị khi tác giả kể về một chuyến đi sang nước bạn Lào, đến thủ đô Viêng Chăn thưởng thức ẩm thực truyền thống của quê nhà nổi tiếng, đó là món phở Hải Lăng. Phở mang hương vị ẩm thực quê hương, có truyền thống rất lâu đời của cha ông, nay truyền lại cho chị Quý. Người Việt ở Viêng Chăn cũng như khách từ Việt Nam sang đều rất thích khi đến đây thưởng thức, vì ăn phở của chị Quý nấu như có cảm giác trở về lại nhà mình, bởi mùi hương đặc biệt của “hương quế, hương hồi quyện với mùi hành tươi vừa chạm vào chút nóng sốt của nước dùng, phảng phất hương vị xứ Bắc nhưng đậm đà, nồng cay đúng khẩu vị của người Quảng Trị”(tr.139-140).
Trong sắc xanh của Trường Sa, xanh biển, xanh cây, xanh trời, nếu không có từng đợt gió biển thổi vào mặn chát, chợt bắt gặp mái ngói rêu phong thâm nâu hiện ra và mùi hương trầm quấn quýt, thân thuộc, mọi người sẽ tưởng như đang thả bộ trên một ngôi làng quê thuần Việt ở đất liền”(tr.60). Cảnh sắc làng quê ruộng đồng, sông nước, đình làng, bến quê,... mênh mang, trù phú, yên ả: “Sông Hiếu con nước đang ròng, xanh thẳm, diệu vợi. Dọc triền sông, ngô non đương thì, tung bụi phấn la đà qua nách lá,... Đất trời đang rét ngọt, mưa liu riu như sương khói”(tr.102). Qua những đoạn văn miêu tả cảnh sắc thiên nhiên này, bạn đọc không chỉ thấy hết được những nét độc đáo, bình dị của thiên nhiên, mà còn cảm nhận được bề sâu tình cảm, ân tình của con người nơi những miền quê, vùng đất đó. Đào Tâm Thanh có cách nhìn đầy tuệ nhãn về con người, đặt biệt là miêu tả về người lính có những chi tiết đắt giá, cảm động. Những cán bộ, người lính như Trung tá Trần Đức Thông, Đại úy Vũ Phi Trừ, Thiếu úy Trần Văn Phương, Thiếu tá Vũ Huy Lễ (Trong sắc đỏ Trường Sa); Chuẩn Đô đốc Nguyễn Ngọc Tương, Thượng úy Nguyễn Huỳnh Bảo Vân, Đại úy Lê Ngọc Phương (Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này); Trung tá Đặng Hùng Long, Trung tá Trần Minh Thuần, Trung úy Hoàng Minh Tú, Thiếu tá Trịnh Công Lý (Những chấm xanh thương nhớ),... luôn vững vàng, hiên ngang, dũng cảm trước sóng gió, trước kẻ thù để thực thi sứ mệnh bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc. Thủ pháp nghệ thuật đồng hiện thời gian cũng được Đào Tâm Thanh vận dụng một cách nhuần nhuyễn, điêu luyện, tinh xảo trong các tác phẩm như Trong sắc đỏ Trường Sa, Thao thức nhà giàn, Hoa trôi về phía nụ cười, Cùng một hướng nhìn giữa đất trời Thành Cổ,… Chính sự đan xen giữa hiện tại, quá khứ và tương lai đã giúp người đọc khám phá được những vùng hiện thực của lịch sử, văn hóa, đời sống xã hội và cả những ký ức thẳm sâu ở mỗi người. Tác giả sử dụng triệt để bút pháp dòng ý thức để khắc họa nội tâm của nhân vật - con người. Những cung bậc cảm xúc như hạnh phúc, khổ đau, vui, buồn, đau đớn, khắc khoải, nghẹn ngào, chua xót, nhớ thương,… đã bộc lộ được cảm xúc của con người – nhân vật trong tác phẩm. Trung tá Phạm Văn Hiến (Có một nơi thiêng liêng và đẹp như thế); Trung tá Nguyễn Thanh Phong, Trung tá Ngô Quang Chức (Vững tin nhiều khi đã gặp nhau đây),... là những người lính được bạn đọc yêu mến, cảm phục bởi những tâm tình, thủy chung với Tổ quốc, với đồng đội, đồng chí, với gia đình không bao giờ vơi cạn. Có thể nói, chỉ có những nhà văn, nhà báo như Đào Tâm Thanh thật sự yêu mến, quý trọng người lính hải quân mới tình nguyện đi cùng họ trên suốt dặm đường dài gìn giữ, bảo vệ Tổ quốc yêu thương, mới viết về họ một cách đắm say, trìu mến, với tất cả tài năng và tâm huyết đến như vậy.