Lễ hội Đền Cuông - Mạch nguồn văn hóa tâm linh

05/03/2023 08:42

Theo dõi trên

“Tâm linh là niềm tin, ước vọng của con người đối với đối tượng siêu hình mà người ta hướng tới đồng thời là những tác động từ các yếu tố siêu hình tới đời sống tinh thần của một số cá nhân trong những không gian và thời gian nhất định mà không phải khi nào chúng ta cũng giải thích được” (TS Dương Văn Sáu).

z4156123825023-17003fda7a0ac8a142761c3214ec5cbe-1677942682.jpg
Đền Cuông - Đền thờ Thục Phán An Dương Vương (xã Diễn An, huyện Diễn Châu, Nghệ An). Ảnh: Nguyễn Diệu

Cổ miếu danh sơn

Đền Cuông, đền thờ An Dương Vương, vị vua cách nay hơn 2.250 năm về trước, đã lập lên nước Âu Lạc, dựng kinh đô Phong Khê, xây thành Cổ Loa kiên cố. Vì không tỉnh táo trước âm mưu thâm độc của bọn bành trướng phương Bắc nên An Dương Vương đã sa cơ.

Sự nghiệp của Thục Vương kéo dài 50 năm, khởi đầu từ năm 218 TCN, khi các lạc tướng suy tôn là vị lãnh tụ. Kháng chiến thắng lợi, Thục Vương nắm trọn quyền uy, dốc sức dựng cơ đồ đại nghiệp. Thế nhưng, lại kết thúc một cách bi thảm vào năm 208 TCN, tại “Bến An Dương”. “Bến An Dương”, xưa là Cửa Hiền, bị bồi lấp từ lâu, nằm ở phía Đông Nam đền thờ An Dương Vương, nay thuộc xã Nghi Yên, Nghi Lộc. Trên sườn núi cận kề QL1A là tòa miếu cổ kính nguy nga, một di tích văn hóa lịch sử lâu đời, dựng lên từ ngàn năm trước.

z4156123803507-995b37d8ebf78932b8f9071775daafe3-1677942055.jpg
Một di tích văn hóa lịch sử lâu đời, dựng lên từ ngàn năm trước. Ảnh: Nguyễn Diệu

Để tưởng nhớ công lao to lớn của Ngài, người dân Diễn Châu đã lập miếu thờ ở Cửa Hiền. Theo truyền thuyết kể lại, tuy đã có miếu thờ, nhưng mỗi khi màn đêm buông xuống, trên núi Mộ Dạ thường xuất hiện những đốm lửa lập lòe. Nhân dân cho rằng đó chính là linh hồn của vua Thục Phán muốn yên ngự trên núi, người dân sau đó đã lập đền thờ và rước linh hồn Vua về thờ phụng. Đền thờ An Dương Vương trên núi Mộ Dạ có từ ngày đó.

Ngôi đền được gọi là đền Cuông nhưng ngụ ý nói đền Công (tiếng Nghệ An). Tương truyền, khu vực núi Mộ Dạ xưa có nhiều chim công (chim hạc) sinh sống, thế núi Mộ Dạ nhìn xa tựa một con chim công khổng lồ đang múa, đầu chim chính là nơi đền tọa lạc. 

z4156123645289-2e9133c5469885146061f4e817cce8fe12-1677943245.jpg
Du khác thập phương về đền chiêm bái. Ảnh: Nguyễn Diệu

Truyền thuyết kể rằng: Thục phán An Dương Vương nổi tiếng với tài binh lược và đặc biệt gắn liền với ông là ngôi thành Cổ Loa huyền thoại. Không chỉ vậy, ngôi thành này còn gắn liền với vị thần Kim Quy và cái nỏ thần. Bắt đầu từ đó, đất nước Âu Lạc bước vào thời kỳ hưng thịnh và không lo nạn giặc ngoại xâm. Vào cuối đời Tần, Triệu Đà gốc Hán chiếm cứ Uất Lâm (Quý Huyện - Quảng Tây), Nam Hải (Quảng Châu - Quảng Tây), lập nước Nam Việt, xưng vương đóng đô ở Phiên Ngung. Triệu Đà mang mộng xâm lấn mở mang bờ cõi nên y nhiều lần đem quân nhằm thôn tính nước Âu Lạc, thế nhưng mấy lần đem quân sang đều bị thất bại bèn lập kế cầu hòa. 

Thục An Dương Vương không những chấp nhận mà còn gả con gái yêu là Mỵ Châu cho Trọng Thủy, con trai vua Triệu Đà. Sau khi được “nhạc phụ” tin tưởng, Trọng Thủy bắt đầu ý đồ ăn cắp lẫy nỏ thần và báo về cho vua cha. Có lẫy nỏ thần trong tay, chắc thắng sẽ đánh bại Âu Lạc, Triệu Đà hí hửng cất quân đánh. Do chủ quan có nỏ thần hộ mệnh, giặc đến sát chân thành mà quân Thục vẫn đủng đỉnh không thèm nghênh chiến, nên thua to. Mất thành, An Dương Vương cùng con gái chạy vào Nghệ An lánh nạn.

z4156123571344-2e698174cf1919aa2f0e92195f36b4921-1677943459.jpg
Một trong những điểm du lịch tâm linh của tỉnh Nghệ An. Ảnh: Nguyễn Diệu

Sau khi cùng Mỵ Châu lên ngựa phóng về phương Nam, tới nơi bờ biển chắn ngang, đường bị cắt đứt, đò giang không thấy bóng người, An Dương Vương kêu lên rằng: “Trời đã bỏ ta, hỡi sứ giả đại giang mà ta đã gặp, hãy cứu ta!”. Từ mặt nước, thần Kim Quy nhô lên và nói: “Bệ hạ đang mang theo kẻ thù trên lưng ngựa. Cớ sao còn để làm gì?”. Thục An Dương Vương rút kiếm định chém đầu Mỵ Châu, thì nàng khẩn khoản lạy thưa: “Nếu vì lòng phản bội mà hại phụ vương thì sau khi chết con sẽ trở thành cát bụi. Nhưng nếu vì mù quáng, cả tin mà dẫn đến cảnh ngộ này thì sau khi con chết con sẽ hóa thành đá…”. Vừa dứt lời, An Dương Vương chém Mỵ Châu. Nàng nằm sõng soài trên cát trắng, máu nàng chảy xuống biển, những con trai hớp được đã biến thành ngọc quý ở trong lòng trai. Thi thể của nàng chìm xuống đáy sâu của biển và cũng biến thành một tảng đá.

“… Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu
Trái tim lầm chỗ để trên đầu
Nỏ thần vô ý trao tay giặc
Nên nỗi cơ đồ đắm biển sâu...”
(Tâm Sự - Tố Hữu)

z4156123569829-fd6cf4fa424808fd6fcebd2c80e48c78-1677943528.jpg
Theo truyền thuyết kể lại, tuy đã có miếu thờ, nhưng mỗi khi màn đêm buông xuống, trên núi Mộ Dạ thường xuất hiện những đốm lửa lập lòe. Ảnh: Nguyễn Diệu

Lễ hội Đền Cuông

Các cơ sở tâm linh như đền, chùa, miếu... là một trong những nơi con người muốn tìm đến để chiêm bái và thõa mãn nhu cầu tâm linh của mình. Và đền Cuông là một trong những địa chỉ quen thuộc mà người dân vùng biển Diễn Châu nói riêng và người dân Nghệ An nói chung thường lui tới để cầu mong những điều tốt đẹp. 

Lễ hội đền Cuông chính thức được tổ chức từ năm 1993, trước đó chỉ tồn tại dưới hình thức là lễ tế thần. Đến nay, lễ hội được tổ chức thường niên từ ngày 12 đến 16/2 âm lịch. Tuy mới được phục hồi từ năm 1993, nhưng hằng năm, lượng khách về tham quan chiêm bái và tham gia lễ hội đền Cuông đã tăng lên đáng kể. Nơi đây được du khách biết đến như một điểm du lịch tâm linh đầu năm, trở thành nếp sống sinh hoạt không thể thiếu của người dân xứ Nghệ. 

20220317-221603-1647533249-1677943721.jpg
Đền được xây dựng theo kiến trúc chữ "Tam". Ảnh: Nguyễn Diệu

Xưa kia, triều đình quy định lễ hội đền Cuông là quốc lễ, quốc tế. Trên mặt chính của lầu từ cổng tam quan đền Cuông hiện vẫn còn lưu được dòng chữ Hán đắp nổi rất lớn “Quốc tế thượng từ” (Đền nhà nước tế). Phần lễ của lễ hội đền Cuông bao gồm 5 lễ: lễ khai quang, lễ yết, lễ cáo trung thiên, lễ đại và lễ tạ. Ngoài ra, còn có thêm lễ túc trực. Khi tham gia lễ, các vị trong ban hành lễ sẽ phải mặc lễ phục theo quy định.

Lễ khai quang là lễ diễn ra đầu tiên trong lễ hội đền Cuông. Và được tổ chức vào ngày 12/2 âm lịch hàng năm. Nội dung của phần lễ này là dâng hương xin các vị về trời để nhân dân làm công tác don dẹp đền chuẩn bị cho lễ hội sắp tới.

Lễ cáo trung thiên được tổ chức ngay sau khi kết thúc công việc dọn dẹp. Với nội dung mời các vị về đền để tham dự lễ hội và lắng nghe những nguyện vọng, mong ước và chứng giám cho lòng thành kính của nhân dân.

20220317-221659-1647533154-1677943803.jpg
Hiện, đền còn lưu giữ nhiều đồ tế khí quý. Ảnh: Nguyễn Diệu

Lễ yết là lễ có tính chất mở đầu lễ hội đền Cuông. Lễ được diễn ra vào 17h chiều ngày 14 tháng 2 âm lịch. Lễ yết gồm 6 bước được tiến hành qua 35 lần xướng trong đó chỉ có 1 lần xướng ở mỗi bước. Nội dung của lễ yết là xin phép các vị cho mở lễ và mời các ngài về để dự lễ.

Lễ rước kiệu bao gồm 3 phần: Lễ rước vua và công chúa vi hành, lễ rước kiệu từ nhà thờ họ Cao và đình Xuân Ái về đền Cuông và lễ rước kiệu về nhà thờ họ Cao (nơi thờ tướng quân Cao Lỗ, một vị tướng tài ba trong thời đại An Dương Vương đã có công chế tạo ra nỏ thần).

Lễ rước vua và công chúa vi hành là bước đầu tiên trong quá trình diễn ra lễ rước kiệu. Lễ được diễn ra khoảng vào 11 giờ tối ngày 14 tháng 2 âm lịch. Việc đầu tiên trong quá trình diễn ra lễ đó là phải làm lễ xin Vua và công chúa cho phép nhân dân được mang linh vị lên kiệu để đưa về đình Xuân Ái phục vụ cho buổi lễ rước kiệu ngày mai. Sau đó rước vua và công chúa về đình Xuân Ái cách đền khoảng 2 cây số. Lễ rước kiệu từ nhà thờ họ Cao và đình Xuân Ái về đền Cuông được bắt đầu từ sáng sớm ngày 15 tháng 2.

20220317-221843-1647533330-1677944085.jpg
Điện thờ Thục Phán An Dương Vương. Ảnh: Nguyễn Diệu

Tương truyền, đình Xuân Ái được nhân dân xây dựng để tưởng nhớ tới công ơn của vua An Dương Vương và đình được xây dựng trước đền vì theo quan niệm dân gian thì đền chỉ là nơi ngài ngự còn đình mới là nơi để Ngài về với dân. Cũng do quan niệm đó nên khi diễn ra lễ hội phải rước Ngài từ đình ra đền để làm lễ và cho nhân dân cầu nguyện.

Đại lễ tại đền là lễ chính trong phần lễ của lễ hội đền Cuông, đây là lễ lớn nhất, kéo dài nhất và cũng đông người tham gia nhất. Lễ diễn ra vào sáng ngày 15 tháng 2 âm lịch.

z4156198349422-1526ae6117da242ca04068fba535028c-1677944143.jpg
Lễ hội đền Cuông hiện nay đã trở thành một hoạt động văn hóa tâm linh không thể thiếu trong đời sống của người dân địa phương

Lễ tất diễn ra vào ngày 16 tháng 2 âm lịch, được tiến hành vô cùng đơn giản. Với nội dung cảm ơn các vị đã về dự lễ. Sau lễ kết thúc, tất cả lễ vật ở trên bàn thờ sẽ được hạ xuống để mọi người hưởng lộc vua ban. 

Bên cạnh phần lễ là phần hội cùng với các trò chơi dân gian: chọi gà, cờ thẻ, cờ người, vật, đu dây; các môn thể thao: bóng chuyền, bóng bàn, kéo co, leo núi; các hoạt động văn hoá, văn nghệ; biểu diễn nghệ thuật, hát chầu văn, thi nét đẹp đền Cuông, chiếu phim video, trưng bầy triển lãm lưu động các chuyên đề về di tích danh thắng - lễ hội của Nghệ An. Trong những năm gần đây, Ban tổ chức lễ hội còn đưa vào phần hội những hoạt động sôi nổi như hội trại thanh niên, hội thi Thanh niên thanh lịch lần thứ 3 (năm 2019) thu hút sự quan tâm của đông đảo nhân dân trong vùng.

z4156199032409-16601d25c7d87ce6601b868f3cbdd725-1677944196.jpg
Nhiều hoạt động thể thao tại lễ hội. Ảnh: Nguyễn Diệu

Lễ hội đền Cuông hiện nay đã trở thành một hoạt động văn hóa tâm linh không thể thiếu trong đời sống của người dân địa phương. Lễ hội được tổ chức hằng năm như một sự tri ân của thế hệ hôm nay đối với những người có công với đất nước, thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc mà thế hệ trẻ ngày nay cần học hỏi và phát huy.

Đền Cuông và lễ hội đền Cuông - là di sản của cha ông ta để lại từ ngàn xưa, cũng là báu vật của ta hôm nay, và là tài sản thừa kế của con cháu chúng ta sau này… Về với đền Cuông là nẻo về nguồn cội, là về với nguồn sống của con dân đất Việt. 

Nguyễn Diệu
Bạn đang đọc bài viết "Lễ hội Đền Cuông - Mạch nguồn văn hóa tâm linh" tại chuyên mục Di sản. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.