Đền Đức Sơn còn có nhiều tên gọi như Đền Thánh Mẫu, đền Võ Miếu, đền Hiếu Thiện thuộc xóm Bắc Sơn, xã Vân Diên, Nam Đàn, được xây dựng vào đầu thời Lê Trung Hưng, tọa lạc trên khuôn viên rộng hơn 1.100m2, từ lâu đây là nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh của nhân dân trong vùng và đông đảo du khách thập phương.
Ngôi đền thờ chính các vị thần thánh thông minh, tài giỏi có công với nước, diệt ác trừ tà như Thánh Mẫu Liễu Hạnh, Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, Nguyên Từ Quốc Mẫu, Đức Thánh Quan, Bản Cảnh Thành Hoàng và nhiều bậc tiền nhân khác. Nhưng ít ai biết rằng, nơi đây nguyên là một thiện đàn với tên gọi Hiếu Thiện đàn - trung tâm cầu cơ, cầu tiên nổi tiếng của xứ Nghệ, góp phần không nhỏ vào việc chấn hưng văn hóa, giữ gìn thuần phong mỹ tục, thức tỉnh lòng yêu nước, thương nòi của người dân xứ Nghệ nói chung và cả nước nói riêng ở đầu thế kỷ XX.
Thiện đàn là tên gọi để chỉ một loại hình tín ngưỡng tâm linh độc đáo, gắn liền với các hiện vật đặc trưng như bút tiên (hay cầu tiên), ghế tiên, bàn tiên nhằm thực hiện hoạt động “cầu cơ”, “giáng bút” thông qua một người có năng lực đặc biệt, để nhận lời giáo huấn từ các vị Tiên, Thánh, Thần được dân chúng tôn thờ ở Thiện đàn. Ban đầu, các vị Tiên, Thánh, Thần chủ yếu nằm trong hệ thống của Đạo giáo như Tam Thanh (Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn, Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn, tức là Thái Thượng Lão Quân), Quan Thánh Đế Quân (Quan Công, Quan Vân Trường), Văn Xương Đế Quân, Bắc Cực Tử Vi Đại Đế...
Về sau, do ảnh hưởng của tín ngưỡng dân gian, đặc biệt là tín ngưỡng thờ Mẫu, các vị Tiên, Thánh, Thần được mở rộng và có sự kết hợp giữa các thần linh của Đạo giáo và các thần linh có nguồn gốc Việt như Tam Tòa Thánh Mẫu, Hưng Đạo Vương, Nguyên Từ Quốc Mẫu, Mai Hắc Đế...
Về bản chất, Thiện đàn chính là giáo đường (đạo quán) của Đạo giáo dân gian. Việc lập Thiện đàn để khuyến thiện vốn xuất hiện từ lâu trong xã hội phong kiến nước ta. Từ thời Lê đã có phái Nội Đạo Tràng, các đạo quán của phái này chính là tiền thân của các Thiện đàn sau này. Các Thiện đàn vừa có ý nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo, vừa có ý nghĩa chính trị. Các nhà yêu nước đã mượn tín ngưỡng, tôn giáo để tuyên truyền chính trị nhưng sau lại “bị tôn giáo hấp dẫn mà tác động trở lại khiến ý thức lợi dụng lúc đầu đã bị chìm ngập vào không khí tôn giáo thực, kèm theo ý nghĩa chính trị”. Loại hình này phát triển mạnh ở thời kỳ đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, góp phần thức tỉnh lòng yêu nước và chấn hưng văn hóa dân tộc.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các phong trào đấu tranh chống Pháp nhanh chóng bị đàn áp, khủng bố, đặc biệt là từ năm 1908 trở đi, sau khi phong trào Duy Tân (Đông Du và Đông Kinh nghĩa thục) thất bại, nước ta rơi vào khủng hoảng về đường lối cứu nước. Đứng trước tình cảnh nước mất nhà tan, xã hội loạn lạc, phong hóa bị suy đồi, con đường cứu nước còn mờ mịt, các sĩ phu yêu nước đã cầu viện đến “hồn thiêng sông núi, tinh anh dân tộc”, mượn lời thánh huấn, thánh giáo của các bậc tiên thánh để dạy đời, cứu dân, trước là để giữ gìn thuần phong mỹ tục, sau là để thức tỉnh nhân tâm. Đó là lý do phong trào Thiện đàn phát triển mạnh mẽ và lan rộng ở hầu khắp các tỉnh trong giai đoạn này, đặc biệt là miền Bắc và Bắc Trung Bộ.
Đền Đức Sơn có kiến trúc đa dạng, gồm nhiều hạng mục, như cổng tam quan, 3 tòa hạ, trung, thượng điện, miếu, bia.. Điều đặc biệt là hạ điện và trung điện của đền kết nối với nhau bằng 2 dãy hành lang dài, lợp ngói, khép kín, ở giữa có trung điện.
Các công trình khác của đền như tam quan, dinh, miếu... tuy không đồ sộ nhưng được xây dựng trong một không gian đối xứng, hài hòa.
Hiện nay, ngôi đền còn lưu giữ được 102 bản mộc trinh chữ Hán khắc chữ hai mặt - kết quả của những lần “giáng bút” và một khối lượng lớn kinh sách, khuôn dấu, bút tiên, bàn tiên, ghế tiên và các hoành phi câu đối của thiện tín gần xa cung tiến về đàn. Đây là minh chứng rõ ràng nhất cho hoạt động sôi nổi của Hiếu Thiện đàn và ảnh hưởng của nó đối với người dân xứ Nghệ trong giai đoạn này. Bên cạnh đó, những cứ liệu gốc, cổ, quý giá này giúp hậu thế hiểu về sự hình thành và phát triển nguồn gốc làng xã nơi di tích hiện hữu.
Nội dung của các bản kinh đều khuyến khích con người hướng thiện, bỏ tâm tà ác, bỏ các thói hư, tật xấu, bỏ các hủ tục mê tín dị đoan, trai giữ tam cương ngũ thường, gái giữ tam tòng tứ đức, hiếu thảo với ông bà cha mẹ, khuyến khích tinh thần yêu nước, thương nòi...
Ngoài ra, đền còn giữ được nhiều đồ tế khí cổ kính, như kiệu, long ngai, giá gương, hương án, chuông cổ,.. và 6 sắc phong của triều Nguyễn.
Mặc dù lịch sử xã hội có nhiều thay đổi qua các thời kỳ nhưng đền Đức Sơn xưa và nay vẫn uy linh, hiển hách, giải ách trừ tà, cứu dân độ thế, dân chúng phụng thờ, sớm tối hương đăng bốn mùa bất diệt, kinh văn đạo pháp sáng ngời, tín thiện xa gần đến hành hương vãn cảnh đông đúc. Ngôi đền là chốn tâm linh, chính khí chống mọi hành vi tà tâm lợi dụng tín ngưỡng làm điều bất chính.
Với bề dày lịch sử, đền Đức Sơn được xếp hạng là di tích Kiến trúc Nghệ thuật cấp Quốc gia tại Quyết định số 5382/QĐ- BVHTTDL 29/12/2017. Đây là cơ sở pháp lý, tạo điều kiện để việc bảo vệ và phát huy giá dị của di tích đền Đức Sơn. Đồng thời cũng là niềm vinh dự, tự hào, nhắc nhở nhân dân xã Vân Diên, cũng như người dân Nam Đàn phát huy tinh thần, trách nhiệm, chung tay bảo tồn, tôn tạo phát huy giá trị các di sản văn hóa của quê hương, đất nước, giáo dục truyền thống yêu nước cho các thế hệ mai sau.