Tháng Bảy âm lịch ở quê tôi là vào mùa lũ, Quảng Bình từ xa xưa đã lưu truyền trong dân gian câu ca: “Tháng bảy nước chảy lên bờ”. Cậu bé Võ Nguyên Giáp cất tiếng khóc chào đời đúng mùa mưa lũ, vào ngày 2 tháng 7 năm Tân Hợi, dương lịch là ngày 25 tháng 8 năm 1911, trong một cái chòi cao được cất tạm trên gốc cây mít cổ thụ sau vườn nhà để tránh nước lớn lên cao.
Về ngày sinh của Võ Nguyên Giáp, các nhà nghiên cứu chuyên viết tiểu sử các yếu nhân, thì mỗi người nói một cách. Chẳng hạn Jean Sainteny, trong phần chỉ dẫn tiểu sử Võ Nguyên Giáp (Notice biographique sur VoNguyen Giap) viết: Võ Nguyên Giáp sinh năm 1912. Từ điển Bách khoa (Larousse) của Pháp lại ghi: ông sinh Năm 1911. Thậm chí có tác giả như Boudarel trong cuốn “Giap” do nhà xuất bản Atlas ấn hành năm 1977 viết: “Sinh ra ở An Xá, tỉnh Quảng Bình năm 1910”. Còn tạp chí “The Sunday Time Magazine” số ra tháng 11/1972 James Fox ghi: “Ông sinh ngày 1/9/1910” và James Fox khẳng định như đinh đóng cột rằng đó là ngày sinh chính xác, vì ông đã “tìm thấy giấy khai sinh của ông Giáp tại Thủ đô Paris”. Tuy vậy theo gia đình và họ hàng, Võ Nguyên Giáp sinh năm Tân Hợi, 1911 vào ngày 25/8, đúng vào mùa nước lũ ở Quảng Bình.
Võ Nguyên Giáp sinh trưởng trong một dòng họ lớn, có tiếng tăm tại làng An Xá, họ Võ, có nhà từ đường khá to ở cuối làng, cụ nội là Võ Quang Nguyên, một nhà nho đức độ và cụ bà Bùi Thị Giá, rất mực đảm đang, yêu thương chồng con. Giáp sinh ra không thấy mặt ông nội, nhưng cậu nhớ như in, lúc bà nội mất bà mặc chiếc áo điều thẩm.
Sau bao năm tháng chiến tranh liên miên, gia đình phải di tản nhiều nơi. Việc cúng giỗ, trông coi phần mộ không có điều kiện, mộ các cụ lâu ngày bị thất lạc. Gần đây, được sự giúp đỡ của của bà con, láng giềng, chòm xóm, con cháu đã tìm thấy phần mộ của các cụ, nằm trên thượng nguồn sông Kiến Giang.
Gia đình Võ Nguyên Giáp có bảy anh chị em, nhưng người anh cả và chị cả mất sớm., còn lại năm: ba người con gái và 2 người con trai là Võ Nguyên Giáp và em là Võ Thuần Nho, sau này là Thứ trưởng Bộ Giáo dục. Cụ thân sinh của Võ Nguyên Giáp là cụ Võ Quang Nghiêm và cụ bà Nguyễn Thị Kiên. Cụ Nghiêm là một nho sinh, đã nhiều lần lều chõng đi thi, tuy không đỗ đạt, nhưng là một nhà nho có uy tín trong vùng. Cụ dạy chữ Hán, nhưng khi phong trào học chữ Quốc ngữ phát triển, cụ chuyển sang dạy chữ Quốc ngữ cho thanh thiếu niên trong làng và làm nghề bốc thuốc chữa bệnh cứu người. Cụ Nghiêm không phải là tiên chỉ trong làng, nhưng mỗi lần làng có việc tế lễ, đều trân trọng mời cụ làm chủ tế. Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bùng nổ, do phải thu xếp việc nhà nên chưa kịp tản cư cùng gia đình lên chiến khu, cụ Nghiêm bị giặc Pháp bắt đưa về giam ở Huế. Cụ bị chúng tra tấn dã man đến chết trong nhà lao Thừa Phủ Huế. Sau ngày đất nước thống nhất, con cháu đã tìm thấy phần mộ của cụ và đưa về an táng tại nghĩa trang liệt sỹ huyện Lệ Thuỷ.
Hai bà thông gia: Bà Đặng Thị Thư (bên trái, mẹ của liệt sỹ Nguyễn Thị Quang Thái), và bà Nguyễn Thị Kiên (bên phải, mẹ của Võ Nguyên Giáp)
Khác với cụ ông rất nghiêm khắc trong việc giáo dục con cái, giữ gìn nền nếp gia phong, chăm chỉ học hành, thì cụ bà rất mực yêu thương, dang tay ôm con vào lòng, đỡ lời cho con cái mỗi khi bị cụ ông mắng mỏ. Trong những năm đầu chống Pháp, cụ bà cùng gia đình tản cư lên chiến khu Bang Rợn, huyện Lệ Thuỷ. Lâu ngày không được gặp con, cụ nhớ thương con vô hạn. Từ chiến khu Lệ Thuỷ, bà viết thư gửi ra Việt Bắc cho ông Giáp, trong thư có đoạn: “Mẹ buồn lắm, mong sao cho được gặp hai con cho đỡ buồn ”. Năm 1952, bà rời quê hương ra chiến khu Việt Bắc, rồi cùng gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp trở về Thủ đô Hà Nội, sau ngày miền Bắc hoàn toàn được giải phóng 1954.
Gia đình cụ Nghiêm thuộc diện nhà nho nghèo, quanh năm phải vay nợ nặng lãi của các nhà giàu như Khoá Uy, một Hoa kiều giàu sụ ở làng Tuy Lộc, kề bên làng An Xá. Cậu Giáp có lần theo mẹ chèo nô ốc (thuyền) chở ló (thóc) đi trả nợ, cậu suốt buổi phải ngồi dưới nô ốc trông ló, còn mẹ cậu phải đội ló chạy lên chạy xuống bến, dưới trời nắng chang chang.
Tuy còn nhỏ tuổi, nhưng những câu chuyện đêm đêm mẹ kể cho cậu nghe về tướng quân Tôn Thất Thuyết phò vua Hàm Nghi hạ Chiếu Cần Vương, kêu gọi các sỹ phu yêu nước và dân chúng đứng lên chống Pháp qua bài vè: “Thất thủ kinh đô” đầy cảm động đã gieo vào lòng cậu bé những ấn tượng không bao giờ phai mờ.
Còn tiếp...