Vào hồi 16 giờ 08 phút ngày 9/12 (tức 14 giờ 38 phút giờ New Delhi), tại Pháo đài Đỏ (Red Fort), Ấn Độ, tiếng búa của Chủ tịch Kỳ họp thứ 20 Ủy ban Liên chính phủ Công ước 2003 đã vang lên, thông qua Quyết định số 20.COM 7.a.1. Theo đó, hồ sơ "Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ" của Việt Nam đã đáp ứng hoàn toàn các tiêu chí khắt khe để được ghi danh vào Danh sách di sản văn hóa phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp.
Nghề làm tranh dân gian Đông Hồ khởi nguồn từ thế kỷ XVII tại làng Đông Khê (phường Song Hồ, thị xã Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Trải qua 5 thế kỷ, cộng đồng nơi đây đã sáng tạo nên một dòng tranh khắc gỗ độc bản, mang đậm hơi thở cuộc sống người Việt. Nét độc đáo của tranh Đông Hồ nằm ở kỹ thuật in thủ công tinh xảo và hệ màu sắc hoàn toàn từ tự nhiên: màu điệp óng ánh từ vỏ sò, màu đỏ vang từ sỏi son, màu vàng từ hoa hòe, màu xanh từ lá chàm và màu đen từ than lá tre.
Mỗi bức tranh là kết quả của một quy trình phức tạp gồm sáng tác mẫu, khắc ván và in tranh "úp ván" trên giấy dó quét hồ điệp. Các nghệ nhân phải in lần lượt 5 màu, mỗi màu một bản khắc riêng, tuân thủ nguyên tắc khắt khe: đỏ trước, xanh - vàng - trắng tiếp theo và cuối cùng là nét đen để "khép" hình.
Mặc dù mang giá trị nghệ thuật và lịch sử to lớn, nghề tranh Đông Hồ đang đứng trước nguy cơ mai một nghiêm trọng. Hiện chỉ còn rất ít hộ gia đình tại làng Đông Khê kiên trì duy trì nghề (điển hình là gia đình nghệ nhân Nguyễn Đăng Chế). Theo hồ sơ đệ trình UNESCO, số lượng nghệ nhân lành nghề đã giảm mạnh do nghề khó bảo đảm sinh kế và thế hệ trẻ thiếu sự quan tâm. Bên cạnh đó, các công đoạn chế tác nguyên liệu và khắc ván đòi hỏi nhiều năm tích lũy kinh nghiệm, khiến việc truyền dạy bị đứt gãy. Tình trạng này đã đáp ứng tiêu chí ghi danh vào Danh sách cần bảo vệ khẩn cấp của UNESCO.
Ngay sau thời khắc ghi danh, Thứ trưởng Bộ VHTTDL Hoàng Đạo Cương cùng đoàn đại biểu Việt Nam đã có bài phát biểu cam kết thực hiện Chương trình hành động quốc gia tập trung vào bảy mục tiêu chiến lược. Các mục tiêu này nhằm giải quyết triệt để nguy cơ mai một thông qua việc: Mở các lớp truyền nghề chuyên sâu; kiểm kê và tư liệu hóa các bản khắc gỗ cổ; quy hoạch và cải thiện khả năng tiếp cận nguồn nguyên liệu tự nhiên; hỗ trợ đa dạng hóa mẫu mã và thị trường để đảm bảo sinh kế cho nghệ nhân; đồng thời tích hợp di sản vào hệ thống giáo dục chính quy và phi chính quy nhằm khơi dậy tình yêu văn hóa trong thế hệ trẻ.
Sự kiện này không chỉ là niềm tự hào của cộng đồng Bắc Ninh mà còn khẳng định cam kết của Việt Nam trong việc gìn giữ sự đa dạng văn hóa nhân loại, đảm bảo dòng chảy văn hóa truyền thống được tiếp nối bền vững./.