Những cổ vật vô giá của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam

12/01/2017 13:34

Theo dõi trên

Gần 145 năm tồn tại và phát triển (1802 - 1945) tại đất Thuận Hóa - Phú Xuân nay là TP Huế, nhà Nguyễn đã để lại cho hậu thế nhiều giá trị về văn hóa cũng như vật chất tinh thần. Trong đó có các cổ vật còn sót lại được cho là những vật linh thiêng tượng trưng cho sức mạnh của vương triều nhà Nguyễn. Trải qua thời gian các cổ vật này bị hao mòn vì nhiều yếu tố khác nhau, và hiện tại dù kỹ thuật phát triển nhưng vẫn rất khó để có thể làm ra những nguyên bản như trước.



3 trong số 9 chiếc đỉnh đặt trong sân Thế Tổ Miếu

Kỳ 1: Bảo vật quốc gia bằng đồng

Vạc đồng, súng đồng, đỉnh đồng là những bảo vật được đúc bằng đồng dưới thời Nguyễn. Đây được xem là những vật tượng trưng cho sức mạnh và sự trường tồn của vương triều Nguyễn từ thời các chúa đến thời các vua Nguyễn. Trải qua hàng trăm, những hiện vật này vẫn còn được lưu lại và là minh chứng cho sự khéo léo, kỳ công của các nghệ nhân từ hàng trăm năm trước.
 
Bảo vật tượng trưng cho sức mạnh và sự trường tồn của nhà Nguyễn

Trong số những cổ vật của triều Nguyễn thì hiện có 7 cổ vật đã được công nhận là bảo vật quốc gia. Trong số 7 bảo vật nói trên có 3 bảo vật được làm bằng đồng hiện đặt trong khu vực hoàng thành và Đại Nội. Những bảo vật này không những có giá trị về văn hóa mà còn là biểu tượng để tượng trưng cho sức mạnh của triều đình nhà Nguyễn.

Đặt trước cổng hoàng thành của Đại Nội - Huế, Cửu vị thần công là tên gọi cho 9 khẩu đại pháo được đúc vào thời vua Gia Long từ năm 1803 đến năm 1804. Những khẩu đại pháo này được đúc bằng từ các khí tự bằng đồng của triều Tây Sơn, triều đại được cho là kẻ thù của vua Gia Long và 9 khẩu đại pháo cũng chính là chiến lợi phẩm của nhà Nguyễn trước nhà Tây Sơn. 9 khẩu đại pháo này được đặt tên theo bốn mùa xuân, hạ, thu, đông và ngũ hành tương sinh: Kim, mộc, thủy hỏa, thổ. Ở trên thân mỗi khẩu súng có khắc một bài minh bằng chữ Hán theo lối triện, gồm 79 chữ. Trên thân súng có 6 gờ nổi, trong đó có hai gờ ở hai đầu quai được đúc rộng bản như hai vòng đai bao quanh thân súng. Hai bên mỗi đường gờ đều trang trí các dải hoa văn dây lá được chạm nổi với những đường nét mềm mại, sinh động và rất tinh xảo.

Đặc biệt rằng, 9 khẩu súng này không được chính quyền nhà Nguyễn sử dụng trong chiến đấu mà được tôn sùng như những vị thần, tượng trưng cho uy quyền và sức mạnh của vương triều. Hàng năm, triều đình thường tiến hành các cuộc lễ cúng cho “thần súng” và nghiêm cấm thường dân không được vào nơi đặt súng để tỏ sự tôn nghiêm. Việc cúng lễ được tiến hành với ngân sách của triều đình và sự sắp xếp tổ chức của viên suất đội trực tiếp trông coi việc bảo vệ súng. 
 


Vạc đồng đặt trong Đại Nội



5 trong số 9 khẩu thần công trước hoàng thành

Theo bà Huỳnh Thị Anh Vân, Giám đốc Bảo tàng cổ vật cung đình Huế, vào năm Gia Long thứ 15 - 1816, vua Gia Long đã sắc phong cho cả 9 khẩu đại bác này danh hiệu: “Thần Oai Vô địch Thượng tướng quân, lần lượt từ khẩu đệ nhất cho đến khẩu đệ cửu. 

Cũng giống với Cửu vị thần công bộ Cửu đỉnh (9 đỉnh làm bằng đồng) hiện đang đặt trong sân Thế Tổ Miếu (nơi thờ vua Nguyễn) cũng là vật tượng trưng cho sự trường tồn của vương triều nhà Nguyễn.

Cửu đỉnh được đúc từ năm 1835 đến 1837, được vua Minh Mạng cho đúc để làm truyền đời cho con cháu, thể hiện sự thành công, trường tồn của triều đại. Cửu đỉnh đặt trong Thế Miếu ứng với miếu hiệu của các vị vua đang được thờ trong Thế Tổ Miếu.

Trong số 9 đỉnh thì Cao đỉnh là chiếc đỉnh lớn nhất và được đặc ngay chính giữa, được xem là biểu tượng của hoàng đế chính vị, ứng với án thờ Thế tổ Cao hoàng đế Gia Long trong Thế Tổ Miếu.

Các nhà nghiên cứu văn hóa Huế cho rằng, Cửu đỉnh không chỉ tượng trưng cho nhà Nguyễn mà còn là vật đánh dấu chủ quyền đất nước. Trên các đỉnh có các hình điêu khắc các địa danh của đất nước: Núi Thiên Tôn (quê hương của họ Nguyễn), sông Hương, núi Ngự, đại diện của miền Trung; sông Bến Nghé, sông Tiền, sông Hậu, đại diện cho vùng đất do tổ tiên nhà Nguyễn mở mang bờ cõi ở phương Nam và cũng là nơi Nguyễn Ánh dấy nghiệp; các con kênh đào, công trình thủy lợi có ý nghĩa thiết thực được thực hiện dưới thời Nguyễn như: Kênh Vĩnh Tế, kênh Phổ Lợi, kênh Lợi Nông, kênh Cửu An, kênh Vĩnh Định, kênh Vĩnh Điện... Ngoài những đại diện của nền kinh tế nói trên, trên Cửu đỉnh còn có các đại diện của nền kỹ thuật quân sự, như các loại đại pháo, súng điểu thương, các loại thuyền; các cửa ải quan yếu như: Quảng Bình quan, Hải Vân quan, các cửa biển...

Ngoài ra, trên các đỉnh còn có hình ảnh của các loài cây, con và sản vật các miền đất nước. Tất cả được lựa chọn để làm đại diện cho sự phồn thịnh của tài nguyên đất nước.

Cũng để khẳng định sự trường tồn cho vương triều nên vào thế kỷ XVII, chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần (1648 - 1687) cho đúc 10 chiếc vạc đồng, tượng trưng cho sức mạnh, sự trường tồn của chính quyền Đàng Trong. Những chiếc vạc này được làm bằng đồng chất, thống nhất về loại hình và kiểu dáng, kế thừa văn hóa cội nguồn Thăng Long đồng thời thể hiện sự sáng tạo của cư dân Đàng Trong thế kỷ XVII.

Khó lòng đúc được nguyên mẫu như bảo vật
 
Trao đổi với PV, Nghệ nhân nhân dân Nguyễn Văn Sính người có hàng chục năm trong nghề đúc đồng, là hậu duệ của đội “chú tượng kinh nhân” là đội ngũ chuyên đúc đồ đồng cho triều đình nhà Nguyễn đánh giá rằng, những bảo vật bằng đồng của vương triều Nguyễn là vô giá, được chế tạo với một trình độ rất cao, mặt khác các bảo vật bằng đồng được đúc trong giai đoạn nhà Nguyễn trải qua nhiều biến động về chính trị - xã hội nên đúc được cũng không phải là đơn giản.

Ông Sính kể rằng vật đầu tiên của nhà Nguyễn được đúc bằng đồng chính là 10 chiếc Vạc. Những chiếc vạc này được đúc sau khi chúa Nguyễn Phúc Tần đánh bại được thủy quân Hà Lan tại cửa biển Thuận An. Theo lão nghệ nhân, những chiếc vạc ra đời trong hoàn cảnh Đàng Trong và Đàng Ngoài đang đánh nhau từ sông Gianh (Quảng Bình) đến Nghệ An, và những người đúc nên 10 chiếc vạc là những nghệ nhân người miền Nam.
 


Nghệ nhân nhân dân Nguyễn Văn Sính nói về các bảo vật bằng đồng

Để đúc được những chiếc vạc nói trên là việc rất khó, đòi hỏi các nghệ nhân phải rất giỏi tay nghề mới có thể làm được. Ông Sính nói rằng thời kỳ đó kỹ thuật của miền Nam chưa bằng miền Bắc, thiếu vật liệu. Mặt khác thời chúa Nguyễn Phúc Tần đang có loạn lạc do Đàng Trong và Đàng Ngoài đang đánh nhau nên việc huy động thợ thầy cũng không phải là dễ.

Ông Sính cho biết, mặc dù những chiếc vạc do những nghệ nhân người miền Nam đúc nhưng công thức để chế tạo ra những chiếc vạc này lại dựa trên công thức đúc nồi, niêu của người Thanh Hóa. Vạc được làm bằng đồng có pha thêm thiết, hai vật liệu này được nấu chảy với nhau sau đó để nguội nên giữ được chất đồng, do có pha thiết nên “nước da” của vạc đồng thường có màu xanh, nên dù để ngoài trời hàng trăm năm nay nhưng vẫn không hề gì.

Khi chúng tôi nhắc đến Cửu đỉnh, lão nghệ nhân hồ hởi nói rằng, đây chính là đỉnh cao của nghệ thuật đúc đồng thời Nguyễn, bây giờ tuy có điều kiện nhưng cũng khó để đúc được những chiếc vạc đỉnh như vậy. "Dưới thời kỳ trị vì của mình, vua Minh Mạng đã cho triệu tập các thợ giỏi khắp cả nước về Huế để đúc Cửu đỉnh. Vào thời Minh Mạng đất nước đang hòa bình, thịnh trị nên việc đúc những chiếc đỉnh có điều kiện để làm hơn. Nếu như vạc được làm bằng đồng được pha thiết thì Cửu đỉnh ngoài đồng không rỉ ra còn được nghệ nhân thời đó pha thêm bạc, vì vậy mà đỉnh có màu xanh đen, khi chạm vào những chiếc đỉnh này ta thường cảm thấy lán", ông Sính nói.

Vào thời Gia Long, nhà Nguyễn cho thành lập đội “chú tượng kinh nhân” để triệu tập các thợ đúc đồng giỏi trong cả nước về Huế để đúc đồng, tổ tiên của ông Sính vào đời thứ 5 và 6 là một trong những thành viên của đội này.
 
Ông Sính cho hay, cửu vị thần công là một trong số những vật bằng đồng do đội “chú tượng kinh nhân” đúc ra và đúc ngay trên đất Huế. Đánh giá về 9 khẩu thần công này ông Sính nói rằng: “Thời kỳ đó các cụ nhà ta đã làm được là điều rất nể phục, hiện tại đúc được súng với khối lượng và hoa văn tinh xảo như vậy là một điều rất khó. Bây giờ đúc được súng thần công như thế thì cũng vài người làm được”. Cũng theo ông Sính so với vạc và cửu đỉnh thì cửu vị thần công có một điểm khác biệt đó là không để được ngoài trời mà phải đặt trong nhà có mái che để tránh hư hại.

Nói về việc bảo vệ các bảo vật, bà Huỳnh Thị Anh Vân, Giám đốc Bảo tàng cổ vật cung đình Huế cho rằng, công việc này cũng có một vài khó khăn nhất định, bởi vì các bảo vật nằm ngoài trời, tiếp xúc với thời tiết. Tuy vậy bà Vân cho rằng không thể làm nhà để che cho những bảo vật này, vì xuất phát điểm của những bảo vật là ngoài trời, trường hợp làm mái che sẽ mất đi nguyên bản ban đầu của bảo vật. “Tuy vậy cũng không có gì lo lắng bởi vì bảo vật được làm bằng đồng khá dày, nếu hư hại có chăng là tự sự tác động của con người”, bà Vân nói.

Kỳ tới: Truy tìm cổ vật cung đình Huế
 
Duy Sinh

Bạn đang đọc bài viết "Những cổ vật vô giá của triều đại phong kiến cuối cùng của Việt Nam" tại chuyên mục Di sản. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.