Tiến sĩ Bàn Tiến Tân (bên phải)
Tôi với Bàn Tiến Tân không chỉ là sinh viên cùng lớp văn B – sinh viên khóa đầu tiên trường Đại học Sư phạm Việt Bắc (1966-1970), mà còn cùng tổ và cùng thuộc loại "quan chức" cấp tổ. Cả hai từ hồi sinh viên đều có vẻ hiền lành (không biết có phải đều là dân miền núi không?), cho nên trong việc học hành và "quản lý” tổ hình như chúng tôi không cãi nhau bao giờ. Nhưng không hiểu sao từ cái hồi trẻ trung ấy mà chúng tôi xưng hô với nhau khá kỳ cục, Bàn Tiến Tân gọi tôi là "mụ" (nghe vừa già cả vừa xấu xí, may mà không ác), còn tôi gọi Bàn Tiến Tân là "lão" ( "lão Bàn" hoặc "Bàn cổ", nghe thế cũng không thể tưởng tượng ra một chàng trai "to cao, béo mượt " được!). Rồi chúng tôi cũng như bè bạn khóa sinh viên đầu tiên của trường Đại học Sư phạm Việt Bắc đã cùng nhau vượt qua bao khó khăn của một trường đại học ra đời trong chiến tranh ác liệt để trở thành các thầy cô cấp 3 cho các tỉnh miền núi Tây Bắc và Việt Bắc. Tốt nghiệp Đại học, tôi cùng lão Bàn và 2 bạn nữa (Vũ Nho và Bùi Phú Hảo) được giữ lại làm cán bộ giảng dạy tại Khoa Văn Đại học Sư phạm Việt Bắc - những cán bộ giảng dạy khóa đầu tiên được đào tạo tại trường.
Những năm đầu lập nghiệp tôi và lão Bàn mỗi đứa một chuyên ngành, tôi được phân công dạy văn học nước ngoài, còn lão Bàn dạy văn học Việt Nam phần văn học dân gian, đứa nào đứa ấy ngơ ngác trước một trọng trách to tướng là cán bộ giảng dạy đại học. Đứa ít tuổi hơn là tôi mới 21, đứa lớn hơn là lão Bàn 25 tuổi, nhưng có vẻ độ “nhiệt tình cách mạng” đối với nghề chẳng ai thua ai, đều dũng cảm lao đầu vào những kiến thức mới và cuộc sống mới của những người trẻ bước vào đời đang trong cảnh “nước sôi lửa bỏng”, chiến tranh đang khốc liệt ở cả hai miền Nam Bắc.
GS. Lộc Phương Thủy và Tiến sĩ Bàn Thị Quỳnh Giao (con gái Tiến sĩ Bàn Tiến Tân)
Chỉ mấy năm sau khi ra trường, mới kịp mon men bước lên bục giảng chưa được bao lâu thì bọn tôi lại có dịp cùng "chiến đấu" là xuống Thủ đô thi nghiên cứu sinh, đi Liên Xô hẳn hoi! Vào năm 1977, cả tôi và Bàn Tiến Tân cùng vượt tàu liên vận sang Liên Xô, hình như mất 9 hay 10 ngày đêm. Tôi về Đại học Tổng hợp Lêningrat, còn lão Bàn là nghiên cứu sinh của một trường oách nhất thời đó: Đại học Tổng hợp Lômônôxôp ở Thủ đô Matxcơva. Nếu tôi nhớ không nhầm thì học bổng của nghiên cứu sinh thời đó là 85 rúp, suốt ngày lo tiết kiệm để có chút dôi ra, mua dần quà về nhà. Khó khăn là thế mà chẳng hiểu sao tôi có thể có vé tàu hỏa đi Mát. thăm bạn. Lâu quá rồi chẳng nhớ gì nhiều về vụ ấy, chỉ nhớ là đã chê thành phố Mat. của lão tuy cũng to đẹp, “huỳnh tráng”, nhưng không đẹp yêu kiều như Lêningrat, làm lão có chút bực mình, cũng còn nhớ khi lão cho đi thang máy, lần đầu tiên trong đời bước vào thang máy, cửa thang đóng cái “rụp” rồi phi thẳng lên trời, mình sợ chết khiếp (đúng là đồ "nhà quê ra tỉnh "!).
Về nước, chẳng có điều kiện gặp nhau vì tôi sống chết đã xin về Hà Nội để “hợp lý hóa” gia đình chồng người Hà Nội, còn lão trở về Thái Nguyên yên phận gõ đầu sinh viên. Có lần không nhớ vì việc gì lão xuống Hà Nội, bạn cũ hàn huyên tâm sự, hai Tiến sĩ từ Liên Xô về, nhiệt huyết với đời, với nghề nghe chừng vẫn không giảm, nhưng khó khăn trong cuộc sống thì tăng chồng chất, lương ba cọc ba đồng, nuôi mình còn cực, lại còn con cái! Thế rồi trong lúc cao hứng lão rủ tôi đi buôn: bọn mình có khi kiếm được nhỉ, tớ trên Thái Nguyên lấy hàng từ gốc, mụ ở dưới này bán hàng rồi chúng mình chia nhau! Nghe thật hấp dẫn! Nhưng rồi hai Tiến sĩ có vẻ nhiều chữ ấy chẳng biết cụ thể mình phải làm gì với hai bàn tay trắng để “khởi nghiệp”, tiền vốn ở đâu, bán gì, mua rồi bán ra sao, bán cho ai, cả hai đều không biết gì và đều ngớ ngẩn như nhau, tóm lại, vẫn là “người rừng” chính hiệu! Thế là câu chuyện phấn đấu thành “con phe” của hai trí thức trẻ có mác xịn là Tiến sĩ nước ngoài nhanh chóng có một hồi kết bẹp dí. Nhưng rồi cả tôi và lão Bàn cũng chẳng có thời gian để than thở sầu não về nỗi thất bại ấy vì xung quanh mình mọi người đều nghèo khổ “bền vững” như nhau.
Trời thật không công bằng khi cướp đi mạng sống của một người yêu đời luôn vui vẻ, luôn chân thành đang ở những ngày tháng đẹp nhất của đời người như lão Bàn của chúng tôi. Mấy mẹ con vắng bố đã kiên cường bám trụ cuộc đời. Thật may, lão Bàn nhân hậu cũng được Trời cho một niềm an ủi, đó là người vợ xinh đẹp, đầu tiên là chấp nhận yêu chàng trí thức nghèo, rồi tiếp theo là những năm đảm đang, tần tảo, vất vả nuôi đàn con thơ dại. Bạn không còn, nhưng những sợi dây kết nối vẫn hiện hữu, đan xen nhau. Mới hồi nào đó, có lẽ đã khoảng hai chục năm có lẻ, vợ chồng tôi lên Thái Nguyên dự cưới con gái lão Bàn, cháu Quỳnh Giao, rồi mới đây tôi ngồi dự buổi bảo vệ Tiến sĩ của cháu. Hôm ấy con gái mặc bộ váy áo dân tộc lão Bàn ạ, vừa rất đẹp, độc đáo và đầy ý nghĩa. Tôi bảo con: bố mày đang cười kia kìa, chắc bố sung sướng lắm. Đứa con gái mang họ Bàn người Dao của bố đang bảo vệ một luận án Tiến sĩ về dân tộc mình, con nguyện theo nghề bố, cái nghề chữ nghĩa đầy vất vả và gian nan. Lão Bàn chắc tự hào và hài lòng lắm vì hai đứa con của mình đều đã bảo vệ Tiến sĩ. Hai anh em Bàn Tuấn Năng và Bàn Thị Quỳnh Giao đã cùng nhau đứng trong danh sách Các Tiến sĩ dân tộc Dao mà trước đó đã có một cái tên thân thương đứng trước vẫy gọi: Bàn Tiến Tân!
GS. TS Lộc Phương Thủy