BV Thanh Chương

Nhà báo Nguyễn Văn Trường viết hay, sống khiêm nhường

24/09/2018 13:45

Theo dõi trên

Tôi rất tâm đắc với phóng viên chiến trường, nhà thơ Trần Mai Hưởng, nguyên Tổng Giám đốc TTXVN, khi anh đánh giá về nhà báo lão thành Văn Trường: “Ông thuộc thế hệ vàng những người đã đóng góp và hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của cơ quan Thông tấn Quốc gia suốt những năm tháng thử thách cam go nhất, trong chiến tranh và hòa bình trên con đường phát triển."

 
Chị Tuệ Oanh được Bác Hồ ân cần thăm hỏi trong lần đưa tin Bác Hồ tiếp khách tại Phủ Chủ tịch

Anh Văn Trường và đồng nghiệp
 
Với anh, chị Tô Kim Nhâm có “khuôn trăng đầy đặn” và là người toại nguyện nhất trong hạnh phúc gia đình! Kháng chiến chống Pháp bùng nổ, cô học sinh Hà-nội lên ATK tham gia kháng chiến cùng nhiều chàng trai tâm hồn tiểu tư sản, làm việc ở VNTTX. Anh kể về chị với tình cảm đặc biệt và những kỷ niệm sâu sắc: ở rừng thời ấy, cô gái đoan trang, có nước da “trắng như bột” như chị là “của hiếm”. VNTTX có nhiều người “mơ ước bóng hồng” đó, nhưng chỉ anh Hoàng Thịnh lọt vào “mắt xanh” của chị! Anh Thịnh ở Tổ tin tiếng Anh-VNA, giỏi các tiếng: Anh, Pháp, Thái và Nga. Sau này, anh là Trưởng Ban biên tập tin Đối ngoại - nằm trong “tứ trụ triều đình” của cơ quan. Chị là Trưởng Tiểu ban và “độc quyền” tuyến tin ngoại giao. Chị thận trọng, cân nhắc ý tứ từng câu chữ và thường dọa: “Coi chừng “sai một ly đi một dặm”, có khi liên lụy tới quan hệ ngoại giao giữa hai nước “chứ chẳng chơi!”. Tính chị nghiêm khắc, nhưng dù chị có đay nghiến, rền-rĩ đến mấy, vẫn rất đáng yêu! Khi anh chị em Tiểu ban tin Ngoại giao vấp váp, sai lầm, chị nói: “Thấy chưa, cho chết bỏ đời”!. Anh kể một kỷ niệm về chị khá thú vị: có lần Chủ tịch Quốc hội Trường Chinh đi cơ sở làm việc với địa phương, anh Ngô Hữu được cử đi viết tin rồi đưa Văn phòng Chính phủ duyệt. Ai ngờ, sau khi tin được duyệt, phóng viên báo Nhân dân đã đến tự nhận tin của anh và về đăng báo trước! Sáng hôm sau, trước giờ giao ban, chị “bấm” anh Văn Trường, nói: “ Ông chết nhé! Tin của Ngô hữu viết về anh Năm, bị “đổ”, cơ quan phải lấy tin của Báo Nhân Dân!”. Chị nguýt dài, dúi ngón tay, bĩu môi “Cho chết bỏ đời !”, rồi cười hì, hì… Chị từng là trưởng các Phân xã Phú Thọ, Hải Dương rồi phóng viên Phân xã Matxcova. Anh đã từng chứng kiến cảnh chị ỳ ạch dắt xe vựơt đồi dốc cao, nắng rát ở Phú Thọ, dưới vành nón là khuôn mặt đỏ bừng, vai đẫm mồ hôi!…Hoặc cảnh “cô phóng viên nhà báo Trung ương bì-bạch lặn lội” qua cánh đồng trắng nước ở Hải Hưng về với vùng khó khăn nhất, thu lượm tài liệu viết tin, bài …Thế đấy, chị cũng là “người lính xung kích”!
 
Riêng về tuyến tin Nội chính thì không ai có nhiều kinh nghiệm bằng chị Tuệ Oanh. Chị thường được cử đi viết tin về Bác Hồ và đã lưu lại được một số ảnh quý về Bác, trong đó, có ảnh chị đứng bên Bác hồi còn hoạt động ở Việt Bắc. Đặc biệt, ngày 1/1/1968, chị được cử lên Phủ Chủ tịch làm tin Bác tiếp Hoàng thân Norodom Phuritsara, Bộ trường Ngoại giao Vương quốc Campuchia. Hôm ấy, trong lúc giải lao, chị kể lại chuyện chị được gặp Bác ở Việt Bắc 17 năm trước và xin được chụp ảnh với Bác, Bác đã vui vẻ nhận lời và đã chụp ảnh chung với chị. Chị còn giữ được tấm ảnh quý đó đến tận hôm nay.
 
Đăc biệt, chị có một kỷ niệm đáng qúy không bao giờ quên, đó là trong lần viết tin tường thuật Bác tiếp cán bộ Miền Nam ra thăm Miền Bắc. Khi nói chuyện với cán bộ Miền Nam, Bác đã đặt bàn tay lên trái tim mình, nước mắt trào ra, quá xúc động, chưa kip nói nên lời, thì mọi người đã ùa tới ôm chằm lấy Bác, hôn Bác … Khi viết tin về chi tiết Bác để tay lên ngực, chị đã “liều” viết thêm câu: “Miền Nam trong trái tim tôi”. Câu đó thật hay, rất đúng với hình ảnh Bác đặt tay lên trái tim mình. Khi tin chuyển lên Phủ Chủ tịch…chị hồi hộp nghe ngóng, lo lắng, chờ đợi, và sung sướng đến nghẹt thở, khi tin đã được Bác duyệt! Chị cảm thấy tự hào vì nói đúng tâm tư, tình cảm và suy nghĩ của Bác!
 
Rồi chị kể chuyện vui là: thời bom đạn, phóng viên nữ làm tin chính trị, ngoại giao cũng có cái cực “Đi đêm về hôm”, “giấu mình, lột xác”, “ứng xử tế nhị” và… bất tiện lắm! Các sự kiện thường diễn ra vào buổi tối, phải phấn son, quần chùng, áo dài và phải có sẵn “bộ cánh” cất trong tủ - nơi làm việc. Đi, về, đều phải chui vào chỗ kín đáo để “lột xác” rồi mới đạp xe từ cơ quan về nhà! Sau này, chị làm Trưởng tiểu ban Tư liệu-tài liệu. Với bề dày kinh nghiệm, chị đã soạn Tư liệu, tài liệu thỉnh giảng trong giáo trình giảng dạy các lớp học báo chí của cơ quan và được cơ quan cử sang Cămpuchia giúp bạn kinh nghiệm về công tác Tư liệu-tài liệu.
 
 
Anh Văn Trường trong tôi
 
Tôi rất tâm đắc với phóng viên chiến trường, nhà thơ Trần Mai Hưởng, nguyên Tổng Giám đốc TTXVN, khi anh đánh giá về nhà báo lão thành Văn Trường: “Ông thuộc thế hệ vàng những người đã đóng góp và hoàn thành nhiệm vụ vẻ vang của cơ quan Thông tấn Quốc gia suốt những năm tháng thử thách cam go nhất, trong chiến tranh và hòa bình trên con đường phát triển. Ông tâm sự: mình không phải là một nhà báo giỏi nhưng yêu nghề, tận tụy với nghề, với TTX; đã cùng các đồng chí lãnh đạo và anh chị em vươn lên giúp nhau hoàn thành công việc ... Rất trân trọng sự khiêm nhường ấy của ông! Ông thực sự là một nhà báo giỏi, một cây bút xông xáo, say mê với nghề, thích tìm tòi, đổi mới. Ông còn là một nhà quản lý nhiều kinh nghiệm, nhanh nhạy và quan tâm sâu sát không chỉ công việc, mà cả con người. Ông rất chú ý đào tạo anh em trẻ phát triển nghề nghiệp. Chúng tôi đều bị cuốn hút khi ông nói chuyện về nghề nghiệp, về kinh nghiệm từ thực tiễn của mình”.
 
Đối với tôi, trong đời làm báo ở cơ quan có các anh lãnh đạo tôi rất kính trọng, ngưỡng mộ, dễ gần như các anh Vũ Đảo, Xuân Bích, Võ Thế Ái và những người rất giỏi nghiệp vụ, nhưng đã “đi xa” như các anh Trần Hữu Năng, Lam Thanh, Đình Khuyến, chỉ còn anh Văn Trường - người duy nhất vẫn khỏe mạnh, minh mẫn (so với lứa tuổi U90 của anh) và vẫn say mê nghiệp vụ. Anh là một thủ trưởng toàn diện, người gắn bó với tôi nhiều nhất, tôi luôn ngưỡng mộ, kính trọng anh. Trong nghiệp vụ, anh có tính quyết đoán khi chỉ đạo đưa tin (như lần bám trụ chụp ảnh tàu tàu King Ford, quốc tịch Anh ở cảng Hải Phòng và sau đó, là tính kiên quyết bảo vệ phim để phục vụ tuyên truyền của cơ quan). Anh nhanh nhạy (trong tổ chức hai mũi đi chụp, ảnh lấy tin máy bay B52 ném bom ở hai nới Mê Linh và Uy nỗ, và không cầu toàn, kiên quyết vượt qua bom đạn, nhanh chóng về cơ quan viết tin, phát ảnh kịp thời). Anh nhạy bén cả trong quan sát và lắng nghe ý kiến chỉ đạo (dù chỉ qua lời nói chuyện, tâm sự) của các cán bộ lãnh đạo cấp cao như TBT, Thủ tướng, Đại Tướng v.v…và sự chỉ đạo của cán bộ lãnh đạo cơ quan. Anh là cây viết tài năng! Có thể nói, anh là một nhà báo “mắt sáng, lòng trong, bút sắc” như nhà báo hàng đầu Việt Nam, Hữu Thọ, thường nói về nghề báo. Anh còn là người thầy của tôi, không phải dạy trên bục giảng lý luận báo chí, mà là trên thực tế hoạt động nghiệp vụ trong những năm đầu tôi bước vào nghề. Sau khi vượt Trường Sơn vào R (1973) cho đến ngày giải phóng, có đến non nửa thời gian, tôi được phân công làm rẫy (nhiều nhất so với anh em cùng khóa) với lý do: cơ quan “ưu tiên” tôi bị thương ở Trường Sơn, cần ra rẫy làm để hít không khí trong lành! Mới về biên tập một thời gian, thì tôi được đi chiến trường Tây Ninh và 3 tháng sau, Sài Gòn giải phóng - nghĩa là, thời gian tôi biên tập và đi viết tin rất ít. Đã vậy, sau giải phóng, tôi không được về SG ngay, mà phải ở lại Tây Ninh để giúp Phân xã quản lý, ổn định nơi ăn ở và làm nghiệp vụ tuyên truyền, vì Phân xã lúc đó có 3 người, thì một là học sinh Trung học vào tham gia kháng chiến (Hoàng Dững), một là cán bộ bị tù ở Côn Đảo, mới được trao trả năm 1973 (ông Ba Tỷ) và tôi được cơ quan cử xuống. Trước đó, tôi thường được thay mặt Phân xã đi dự các cuộc giao ban của Ban Tuyên giáo tỉnh… Tháng 9/75, tôi mới được về Sài Gòn. Trong khi các bạn về ngay ngày đầu giải phóng, đã quen công việc, nghiệp vụ và đường đi, lối lại, thì tôi về Tp muộn hơn, nên gặp nhiều bỡ ngỡ, nhất là trong nghiệp vụ viết tin. Một kỷ niệm buồn đã xảy ra với tôi là: trong một lần được cử đi dự cuộc họp giao ban về An ninh trật tự Tp, do đồng chí Năm Xuân (tức Mai Chí Thọ), Giám đốc Công an chủ trì, tôi đã không ghi đầy đủ họ, tên ông, đến khi về viết tin, tôi chỉ nhớ người ta gọi ông là Năm Xuân. Bí quá, tôi hỏi mọi người về họ, tên thực của ông, thì một người bạn nói: “Ông ấy tên là Trần Thanh Xuân”. Tôi nói: “Sao giống như tên Thủ trưởng của chúng mình vậy”? (vì Thủ trưởng chúng tôi, ông Trần Thanh Xuân cũng được gọi theo thứ là Năm Xuân)! Tôi hỏi tiếp: “Có đúng họ tên của ông ấy như vậy không, để mình còn viết tin”, thì người bạn đó mặt tỉnh bơ, khẳng định là đúng, ông ấy cùng họ tên như vậy! Sau khi tôi viết tin nộp lên anh Khuyến, Trưởng phân xã, thì hôm sau, người bạn đó nêu chuyện hôm trước, tôi viết tin sai ra để bôi bác tôi trước mọi người! Tôi rất xấu hổ và bực tức, thì anh Khuyến đã đến bên tôi từ lúc nào, gãi nhẹ vào cạnh sườn tôi, tôi nhìn anh, anh mỉm cười, nháy mắt! Chỉ hành động đó của anh đã làm tôi dịu liền, tin tưởng và nhớ mãi cách cư xử tinh tế đó của anh!
 
Chính trong lúc tôi còn non nớt về nghiệp vụ như vậy, thì anh Văn Trường được Tổng xã điều vào phụ trách đưa tin cải tạo công thương nghiệp Tp, đó cũng là mảng tin tôi được phân xã giao viết. Do nắm được sự chỉ đạo của cấp trên nên anh đã giúp tôi hiểu quan điểm, nhận thức về công tác cải tạo, những hướng tuyên truyền và nhiều khi, tôi nhờ anh sửa trực tiếp tin, bài viết cho tôi. Anh thường động viên, khen ngợi tôi, làm cho tôi tự tin hơn. Qua sự giúp đỡ bằng thực tế của anh, trình độ viết của tôi được nâng lên rõ rệt. Không bao lâu sau, tôi đã có những bài được cho là tốt như các bài về HTX Tiêu thụ phường Một (quận 1), phường Tám (quận 8), Công ty Lương thực của bà Ba Thi; bài “Từ dưới lòng Tp” (viết về công nhân vệ sinh cống rãnh Tp); các bài viết về nhà máy sản xuất công nghiệp và nhất là những bài viết về TNXP: cải tạo, giúp đỡ thanh niên đi lên trong cuộc sống mới. Cũng từ sự giúp đỡ về nghiệp vụ đó, sau này, tôi đã viết được một số bài đoạt giải thưởng của cơ quan!

Chẳng những thế, anh Văn Trường còn sống gần gũi, gắn bó với tôi và anh chị em đồng nghiệp. Chúng tôi thường ăn cơm tập thể với nhau. Một kỷ niệm tuy nhỏ nhưng là tình cảm, làm chúng tôi nhớ mãi, đó là lần tôi được phân phối mua một chai bia, tôi đã để tủ lạnh cho mát dự tính chiều hai anh em sẽ uống. Chiều hôm đó, khi tôi lai anh từ cơ quan về khu tập thể, thì chai bia để trên khung xe đạp rớt xuống đường, vỡ! Anh tiếc chai bia vỡ thì ít, mà tỏ ý thương tôi thì nhiều! Đầu năm nay, khi tôi ra HN thăm anh, anh vẫn nhắc lại chuyện chai bia bị vỡ hơn 40 năm trước. Anh thật là một con người tình nghĩa! Với những bài “Thư cuối cùng chị viết cho em” (viết về bà Trình), “chuyện trò với cháu Lan Phương” (con bà Trình), tâm sự với các bạn Công Khuyến, Minh Đạo, Hùng Đào… đều thể hiện tình cảm yêu mến giạt giào. Anh nói trôi chảy như viết. Sức thể hiện trên giấy rất thoáng, phảng phất đâu đó, tính văn nghệ. Anh nhớ và viết cả những bài thơ tình của các cán bộ, bạn bè từng hoạt động cùng anh trước đây…Anh tâm sụ: Nghề báo không tên, với chúng ta chỉ có một danh hiệu VNTTX mà thôi. "Công không thành thì danh không toại”, hãy là viên gạch góp phần xây lâu đài VNTTX bền vững ...!
 
Qua tìm hiểu, đọc những bài viết của anh về những chuyến đi công tác ở miền Bắc trong thời kỳ chiến tranh phá hoại của Mỹ, tôi mới thấu hiểu, môi trường hoạt động của anh hồi đó gian khổ, ác liệt chẳng kém gì chúng tôi ở chiến trường miền Nam trước ngày giải phóng ....Tôi nghĩ, không phải ai đi chiến trường cũng đều gian khổ hơn ở hậu phương, mà ngược lại, trong chiến tranh phá hoại của Mỹ, nhiều người ở hậu phương còn hy sinh, gian khổ hơn gấp nhiều lần so với một số người đi chiến trường! Không chỉ riêng tôi, mà nhiều bạn của tôi cũng nhắc những kỷ niệm đẹp về anh, bày tỏ tình cảm trân quý rất nhiều về anh - một lãnh đạo của Ban Biên tập tin Trong nước, tài năng và khiêm nhường. Anh đã nhận được nhiều Huân, Huy chương khen thưởng của Nhà nước và cơ quan.
 
Đoàn Việt

Bạn đang đọc bài viết "Nhà báo Nguyễn Văn Trường viết hay, sống khiêm nhường" tại chuyên mục Văn hóa - Văn nghệ. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.