
Nhà thơ, nhà giáo Nguyễn Văn Trình hiện là Hội viên Hội Văn học nghệ thuật tỉnh Quảng Trị. Anh sinh ngày 04 tháng 01 năm 1960, tại Lạng Phước, Đông Lễ, Đông Hà, Quảng Trị. Từ năm 1980 đến 1983 anh gia nhập Quân đội Nhân dân Việt Nam và tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc. Từ năm 1983 đến 1987 anh học Đại học khoa Ngữ văn, tại trường Đại học Sư phạm Huế. Sau bốn năm miệt mài học tập, nghiên cứu và rèn luyện anh đã tốt nghiệp và về nhận công tác giảng dạy tại trường THPT Bồ Bản,Triệu phong, Quảng Trị. Sau đó do nhu cầu của ngành giáo dục, anh lần lượt được thuyên chuyển công tác đến giảng dạy ở các trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh, gồm: THPT Đông Hà, THPT Lê lợi, THPT Phan Châu Trinh và THPT Chế Lan viên. Đến năm 2017 Nguyễn Văn Trình được nghỉ hưu theo chế độ.
Duyên thơ đến với anh rất sớm, ngay những năm tháng còn ngồi trên ghế nhà trường, anh đã làm thơ. Những bài thơ ấy rất hồn nhiên, tươi vui của tuổi học trò thời áo trắng thư sinh. Những năm tháng tham gia chiến đấu ở biên giới phía Bắc, anh tiếp tục sáng tác thơ được đồng đội đón đọc, khen ngợi và động viên anh tiếp tục viết thơ để được phổ biến rộng rãi, lan tỏa hơn nữa. Rời quân ngũ, vào môi trường sinh viên anh càng có thêm cơ hội để sáng tác thơ. Những bài thơ anh viết ra, phần lớn những bài thơ hay đều được in trong các tuyển tập thơ văn: Gương mặt thời gian của trường Đại học Sư phạm Huế, các báo tạp chí Trung ương và địa phương. Thơ Nguyễn Văn Trình lúc này không chỉ có lực lượng độc giả là thầy cô, bạn bè mà còn bạn đọc gần xa trong cả nước biết đến và yêu mến, đón nhận một cách nồng nhiệt. Với sự nỗ lực sáng tạo không ngừng nghỉ, đầy tâm huyết nên đã hun đúc Nguyễn Văn Trình hạ sinh đứa con tinh thần đầu đời của mình sau bao nhiêu năm ấp ủ, đó là tập thơ: Mây trắng bên trời, do Nhà xuất bản Thuận Hóa ấn hành năm 2011. Tập thơ vừa mới trình làng thì được bạn đọc đón nhận, các cây bút phê bình, lý luận quan tâm rốt ráo, đánh giá khá cao, góp phần nâng thêm đôi cánh thơ để Nguyễn Văn Trình tự tin bước vào làng thơ Việt Nam đương đại.
Nguyễn Minh Hoàng, ThS Ngữ văn, trong bài viết: Khung trời mây trắng đã nhận định rất đúng về văn phong của Nguyễn Văn Trình, khi cho rằng: “Tập thơ Mây trắng bên trời gói trọn những cảm xúc của thi sĩ về đời, người, nghề và những niềm sâu kí ức. Đọc những vần thơ của anh ẩn chứa những năm tháng cuộc đời, tôi bắt gặp cái sâu sắc trong cách nhìn, cái tinh tế trong cách cảm, cái đa dạng trong cách thể hiện những tâm tư. Không cầu kì, không làm duyên, từng câu từng chữ bình dị mà sang trọng, gần gũi như chính cuộc đời mà chứa đựng những triết lí sâu xa. Bởi Nguyễn Văn Trình đến với thơ bằng tấm lòng của nhà giáo, bằng tâm hồn đa cảm của một thi nhân, mang trách nhiệm thiên lương của một người dâng hiến. Dâng hiến cho đời cái đẹp của tiêu chí nghệ thuật thơ ca: Chân - Thiện - Mỹ. Thơ Nguyễn Văn Trình là sự dấn thân của một người luôn nặng nợ đa mang, với thơ với đời”. Còn nhà thơ, nhạc sỹ Lê Đàn trong bài: Những vầng mây không trôi đã có những nhận định khá sắc nét, lẩy được cái hồn cốt của thơ Nguyễn Văn Trình qua tập thơ, khi cho rằng: “Tập thơ Mây trắng bên trời của thầy giáo - thi sĩ Nguyễn Văn Trình là những vầng mây không trôi. Bởi tập thơ ấy luôn day dứt và ám ảnh, để lại trong tôi ấn tượng khó phai sau mỗi lần đọc. Và tôi tin những nõn mây trắng làm dịu mát lòng người kia sẽ còn mãi cùng với trời xanh, mây trắng”.
Nguyễn Văn Trình là một nhà thơ viết nhiều và viết khá hay về đề tài quê hương đất nước. Đông Hà, Quảng Trị - nơi sinh ra, lớn lên và trưởng thành, gắn bó hơn sáu mươi năm nay đã được nhà thơ Nguyễn Văn Trình cảm tác viết lên những vần thơ chất chứa đầy tâm trạng tươi vui, tự hào, như: Hiếu Giang xanh, Phố thương, Đông Hà ngày mới, Thành phố ngã ba sông, Huyền sử một dòng sông, Chiều An Lạc…
Bài thơ Phố thương cũng đã để lại trong lòng bạn đọc những ấn tượng khó quên. Vẫn theo cái quy luật tuần hoàn của đất trời vần vũ mà sao cứ làm ta vấn vương bởi những gam màu khác lạ trong bốn mùa của một một thành phố trẻ Đông Hà. Bức tranh bốn mùa trong thơ ca truyền thống thường thì mùa Thu là mùa của lá vàng bay, mùa Hạ là mùa của những tiếng ve ngân vang, mùa Đông là mùa của những hàng cây trơ cành, trụi lá và mùa Xuân là mùa vạn vật thay áo mới, cây cối đâm chồi, nảy lộc,… Nhưng bốn mùa trong thi phẩm này lại mang dáng nét riêng của một mảnh đất miền Trung đầy nắng gió. Sắc màu mùa Thu Đông Hà không bâng khuâng, đượm buồn mà kiêu sa, biêng biếc, thao thiết trong những buổi chiều mưa, lạc bước câu thề: “Một mùa thu nữa kiêu sa / Đông Hà tím chiều mưa buồn biêng biếc / Giọt sáng cuối ngày thao thiết / Chợt nhớ chợt thương lạc bước câu thề”.
Vạn vật vần vũ, Thu qua Đông đến. Đông Hà vào Đông mưa bụi bay bay, dòng sông Hiếu trong xanh chất chứa bao kỷ niệm nồng say đã làm xua tan cái lạnh của mưa phùn, gió bấc, đìu hiu và quạnh buồn: “Đông Hà vào buổi cuối đông / Có dòng sông Hiếu, xanh trong tháng ngày / Có trời mưa bụi bay bay / Từ trong kỷ niệm nồng say bao điều”.
Và một mùa Xuân đủ muôn màu sắc thắm, rộn rã, rực rỡ và tràn đầy sức sống tươi trẻ, tinh khôi của một thành phố Đông Hà trăm nhớ nghìn thương. Không gian xuân bừng lên trong sắc màu cờ hoa, rộn ràng của người mua kẻ bán… Cảnh mùa Xuân đầy quyến rũ, đắm say, với bao cảm xúc thiết tha, đằm thắm. Hình ảnh đưa người vào viễn phố du Xuân đã vút lên một niềm tin ngời sáng, một niềm tình yêu gắn kết giữa con người và thiên nhiên: “Đông Hà vào xuân rực rỡ / Cánh mai vàng duyên nợ thi nhân / Hạt sương đọng trắng lá cành / Hoa sen trắng tỏa hương thơm ngào ngạt / Đưa người vào viễn phố du xuân.” (Phố thương).
Sau ngày đất nước thống nhất, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Đông Hà cùng chung tay náo nức dựng xây lại thành phố to đẹp và đàng hoàng hơn, phố xá được mở rộng, nhà cao tầng san sát mọc lên nhanh chóng, những khu công nghiệp, nhà máy, công ty, xí nghiệp liên doanh trong nước và nước ngoài đã đầu tư đem lại nguồn lao động, cung cấp việc làm cho rất nhiều người dân nên đời sống nhân dân ngày càng ấm no, khởi sắc hơn: “Đông Hà, thành phố ngã ba sông / Em biết không? / Thành phố mình đáng yêu là vậy / Chỉ bảy năm thôi mà biết bao thay đổi: / Đại lộ Hùng Vương vươn dài từng con phố / Những tòa nhà nối nhau san sát /Tầng thấp tầng cao tạo dáng phố phường / Có ngôi chùa cổ kín thân thương / Tiếng chuông ngân mỗi sớm mỗi chiều / Đông Hà phố, gợi niềm yêu quê da diết / Phương trời nào cũng nhớ một ngã ba sông”. (Thành phố ngã ba sông).
Hình ảnh thành phố Đông Hà luôn gắn với hình ảnh con sông Hiếu rất đỗi tự hào. Huyền sử dòng sông Hiếu mãi ngân vang những chiến công đánh đuổi giặc thù, tiếp nối mạch nguồn của khí linh nguồn cội anh hùng, đảm đang, bất khuất để cùng chung lưng đấu cật dựng xây làm nên vóc dáng sinh động của một thành phố trẻ Đông Hà sầm uất trên trục đường giao thông huyết mạch Bắc - Nam và trên tuyến đường xuyên Á, hành lang kinh tế Đông - Tây: “Cuộc chiến qua đi / Sông lại hát tình ca / Ôi dòng sông, chở nặng phù sa / Mà làm nên những cánh đồng, bờ bãi / Tắm mát bao cuộc đời, dầu dãi nắng mưa / Hiếu Giang xanh, xanh tựa màu trời / Cửa Việt trung trinh, nghĩa tình vời vợi / Hồn thiêng đất nước, âm ba muôn đời…” (Huyền sử một dòng sông).
Thiết nghĩ có rất nhiều nhà thơ viết về thành phố Đông Hà nhưng hẳn nhiên vẫn chưa đủ, chưa xứng tầm vóc lịch sử của một thành phố trẻ nên vì thế cần phải có thêm những nhà văn thể hiện tình yêu của mình qua những tác phẩm truyện ngắn, tiểu thuyết, tùy bút và phóng sự mới làm đầy lên hình ảnh của Đông Hà ở đôi bờ sông Hiếu đang vươn mình lớn dậy từng ngày trong thời kỳ đổi mới một cách đa dạng và phong phú hơn.
Quê hương thiêng liêng - nơi lưu giữ những mảnh kí ức tươi đẹp. Nơi đong đầy những tấm lòng, tình yêu thương chân thật vì thế nhà thơ Nguyễn Văn Trình đã bồi hồi xúc động, tự hào mỗi khi đến những địa danh của quê hương mình. Cửa Tùng vùng đất một thời chiến tranh đầy đạn bom nhưng đã bừng sáng, mang dáng dấp của một thành phố biển trong tương lai. Những ngôi nhà kiên cố, cao tầng mọc lên san sát, những nhà hàng, quán xá khang trang, lộng lẫy, những cồn cát và biển xanh ngắt,… làm say đắm hồn người. Vua Duy Tân đã coi đây là một vịnh nhỏ có màu ngọc lục bảo, tuyệt đẹp: “Khi anh về với biển Cửa Tùng / Biển mặn khiến lòng anh xao xuyến / Gió hát xôn xao lồng lộng bến bờ / Bãi Nữ Hoàng thiết tha bao nỗi nhớ / Biết nói gì trước biển chiều nay / Trước xanh xa, thanh khiết bao ngày / Trước vẻ đẹp nồng say của biển / Trước giản dị hồn nhiên cuộc sống con người” (Về với biển Cửa Tùng).
Đúng như dự cảm của nhà thơ Ngô Kha: “Rồi sẽ thấy và nhất định thấy. Một đô thị vàng trên đồi Lao Bảo. Một thị trấn yêu kiều qua ngả Làng Vây”. Tình yêu quê hương chính là sức mạnh vô bờ để dựng nên một Khe Sanh, Hướng Hóa giàu đẹp, văn minh, rất đáng được tự hào. Viết về mảnh đất dấu yêu ở phía Tây của quê hương mình, Nguyễn Văn Trình có những bài thơ khá hay như: Khe Sanh ngày mới, Khe Sanh đêm hội quán,... Đến với những bài thơ này đọc giả sẽ tưởng chừng như mình đã từng sống và gắn bó với mảnh đất này nên đủ để yêu thương, đủ để đất hóa tâm hồn của mình để gọi là quê hương: “Anh đến Khe Sanh một buổi chiều / Nghe rừng vẫy gọi thác đăm chiêu / Đường lên uốn lượn theo chiều gió / Dốc xuống quanh quanh, ấm câu hò / Khe Sanh mới đó, lung linh quá / Nắng vàng gió mát dạ chơi vơi / Núi cao từng dải trời xanh thẳm / Thị trấn nằm sương núi mây vờn.” (Khe Sanh ngày mới).
Chính tình yêu quê hương của người thơ là nguồn nước mát lành chảy mãi đổ ra đại dương để hội tụ thành tình yêu đất nước. Là một nhà giáo nên luôn bị câu thúc bởi thời gian công việc giảng dạy và gia đình nhưng Nguyễn Văn Trình vẫn luôn tranh thủ thời gian của những ngày tháng hè để rong ruổi đến những vùng quê của đất nước. Trong một lần đến Đại Lải nhà thơ Nguyễn Văn Trình tràn đầy cảm hứng trước cảnh đẹp sơn thủy hữu tình, đầy thơ mộng đã viết ngay một chùm thơ như khá hay Chiều Đại Lải, Với Đại Lải, Đại Lải vào xuân,... Mỗi bài thơ là một cung bậc của xúc cảm, của tâm trạng chứa đầy niềm hoan ca, tràn đầy vui sướng trước cảnh và người nơi đây, trước những đổi thay tươi sáng. Bài thơ Với Đại Lải như chính tâm hồn rạng ngời, vui tươi của người thơ nên diễn ngôn trong lập tứ và ý thơ rất tự nhiên, trong trẻo. Cảnh vật và con người như người bạn tri âm đã mời gọi nhà thơ từ lâu. Giữa không gian thơ mộng đầy màu sắc, âm thanh của nắng gió, cỏ hoa, hồ nước trong xanh và sắc lụa Hà Đông rạng ngời em gái chan chứa nghĩa tình đã làm say hồn người thơ: “Nắng nghiêng chiều soi gương hồ Đại Lải / Gió mơn man hôn mãi mộng đồi thông / Em rạng ngời trong sắc lụa Hà Đông / Ôi Đại Lải ru lòng tôi đến vậy!? / Lời tự tình hây hây đôi má đỏ / Đại Lải chiều nắng gió hanh hao / Nắng rất mỏng xuyên qua từng kẻ lá / Rừng thông già dạt dào bao giấc mộng / Xanh tháng năm lặng sóng mặt hồ / Êm ả thế như tình em đằm thắm.” (Với Đại Lải)
Nhà thơ Nguyễn Văn Trình ước mơ ít nhất một lần trong đời được đến thủ đô Hà Nội và khát khao ấy cũng đã trở thành hiện thực. Thể hiện tình yêu với thủ đô Hà Nội dấu yêu - trái tim hồng của cả nước - trong chuyến đi này, Nguyễn Văn Trình đã sáng tác bài thơ Trong tôi Hà Nội. Đến với bài thơ bạn đọc cảm thấy mình như được hòa vào không gian thơ mộng, dịu dàng của mùa thu Hà Nội. Một mùa thu yên ả, nắng thu vàng buông chiều, những con phố nhỏ nồng nàn mùi hương hoa sữa, những hồ nước thoang thoảng thơm ngát mùi hoa sen, những hàng liễu rũ, bất chợt những cơn mưa rào ngúng nguẩy,... đã đọng lại bao niềm nhung nhớ: “Hà Nội trong tôi, nắng vàng dịu ngọt / Mây lững lờ trôi nhè nhẹ giữa trời thu / Lộc vừng rơi đầy lối / Ngọc lan thơm nồng nàn / Màu lá bàng đỏ thắm / Đọng bao niềm nhớ nhung” (Trong tôi Hà Nội).
Những con phố, những địa danh lịch sử của thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, cũng được Nguyễn Văn Trình ghi dấu sâu sắc trong thơ, đọc lên nghe như mời gọi xao xuyến lòng người đi kẻ ở: “Hà Nội trong tôi, giấu bao niềm ký ức / Dạo chơi ba mươi sáu phố phường/ Sao nghe vương vấn, giấu thương trong lòng: / Chùa Trấn Quốc, đường Đê La Thành / Chợ đêm, phố cổ, Ba Đình, Hồ Tây / Lũy Hoa lửa khói, cốm đây Làng Vòng …/ Hà Nội kỷ niệm vơi đầy / Để người đi, luyến lưu bao nỗi nhớ / Ngày trở về, ghi tạc những vần thơ” (Trong tôi Hà Nội)
“Tôi lên xứ Lạng tìm em / Tìm trong câu hát, mênh mang nắng chiều / Đường đèo nên dạ liêu xiêu / Chập chùng non thẳm, mắt nhiều khói sương / Ra về lòng lại vấn vương / Ngàn thu chân bước, thương thương không rời / Ra về lại nhớ bời bời / Trăm năm vẫn đợi,một người trăm năm.” (Tìm về xứ Lạng)
“Tam Đảo về đêm, nhấp nhô phố / Chập chùng cao thấp, lộ đèn vàng / Phố lượn thanh thang, quanh sườn núi / Sương giăng Tam Đảo ngoài cảnh quan hấp dẫn, đẹp đến mê hồn cuốn hút du khách thập phương , còn là ẩm thực hương rững ngây ngất lạ, là những ánh mắt vơi đầy, những đôi má đỏ hây hây trong ngày mới thật tình tứ , bâng khuâng đến nao lòng :
“Tam Đảo kia rồi... ! Tam Đảo mây / Bỗng đâu hương rừng, ngây ngất lạ / Thông xanh lá biếc, dựng trời mây / Bóng ai thấp thoáng, ven đèo ấy ...?! / Mây treo, sương quyện mắt vơi đầy / Hây hây má đỏ, trong ngày mới / Bâng khuâng Tam Đảo, đợi Em về ...” (Tam Đảo biển mây)
Bên cạnh những bài thơ đã đề cập đến ở trên, Nguyễn Văn Trình còn có một chùm thơ viết về quê hương đất nước khá hay như những bài: Nắng Sài Gòn, Chiều Sài Gòn, Chiều Đà Lạt, Với Đà Lạt, Với Vũng Tàu, Đến Nha Trang, Phú Quốc đảo ngọc,Cần Thơ gạo trắng nước trong, Hạ Long tiên cảnh, Cõi thiêng Yên Tử, Sa Pa mây trắng, Thắng cảnh Ninh Bình,Về phan thiết, chiều Hải Phòng,Thành phố Hoa Ban, Về Rạch Giá, Hà Tiên truyền thuyết, Đà Nẵng nắng vàng biển xanh, Phố Đèn lồng, Mặn mà Huế thương…
Nghề giáo cũng là nghề gian lao vất vả, khó khăn nặng nhọc vượt lên trên tính chất đơn thuần của một nghề nghiệp là cả một sự nghiệp trồng người cao cả mà Đảng, nhà nước và nhân dân phó thác cho người thầy. Người thầy giáo phải hy sinh cả thời gian tâm huyết, giành cả sức lực và trí lực của mình cho thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của đất nước. Như Bác Hồ đã từng căn dặn : “Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người”.
Nguyễn Văn Trình viết: “Làm nghề giáo đội mưa đội nắng / Trò qua sông thầy thấy yên lòng / Tâm trĩu nặng đầy vơi thương nhớ / Biết bao giờ trò trở lại bến xưa !? / Làm nghề giáo nặng lòng trưa sớm / Dạy cả tuần, chẳng được nghỉ ngơi / Bên đèn khuya, vẫn miệt mài trang giáo án / Bận bịu quanh năm không chút phiền lòng / Đời vẫn vui khi trải lòng cùng trò nhỏ / Làm nghề giáo, đông về sương gió lạnh / Lòng vẫn ấm vì tình yêu con trẻ / Động lực giúp thầy vượt qua ngàn gian khó / Vững lái con đò đưa bao thế hệ qua sông.” ( Nghề giáo của tôi)
Ngôi trường Lê lợi trải qua thời gian và năm tháng trở thành mái ấm của các thế hệ học sinh, giáo viên đã từng học tập công tác nơi đây, dù đi đâu ở đâu thì ngôi trường luôn lưu dấu những kỷ niệm đẹp của một thời đáng nhớ: “Trường em, Lê Lợi Đông Hà / Chưa xa đã nhớ , ước mong ngày về / Tình quê gắn với tình trường / Yêu thương gắn với niềm tin dạt dào / Bao thầy cô, bao bạn bè yêu mến / Bao tháng năm, mãi mãi không quên / Quyết tâm học tập, rèn luyện đức tài / Sáng mãi trường em, Lê Lợi Đông Hà / Dâng bông hoa , truyền thống quê hương / Học hành tốt, tình nghĩa thầy cô / Chắp cánh cho em, / Bay cao bay xa, bay vào mơ ước ... / Trường em Lê Lợi Đông Hà / Trên tầng cao lộng gió ước mơ / Cờ đỏ tung bay / Có ngọn cờ đào dựng nghĩa Lam Sơn / Tự hào trường em, Lê Lợi anh hùng .” (Trường em, trường TH Lê Lợi Đông Hà)
“Em giờ xa xôi rứa...?!” là một câu hỏi không lời đáp vọng từ trái tim của người thơ về một mối tình đẹp của thời hoa mộng không vẹn nguyên, không đơm nở một hạnh phúc tròn đầy theo năm tháng. Em hôm nay không như hôm qua, em giờ xa xôi, em giờ có góc trời riêng, hạnh phúc với mái ấm nhỏ. Câu thơ bật ra nghe thảng thốt một nỗi buồn da thiết của người thơ. Cái thời yêu ấy đã đi vào dĩ vãng, nhưng thi sĩ vẫn cứ ngỡ như vừa mới hôm qua, vừa mới bị mất thôi. Tình yêu để lại cho người thơ một kỉ niệm buồn - một nỗi buồn trong sáng: “Ai ngu ngơ / Ảnh hình trong ký ức / Vu vơ buồn / Lạc lối chiều buông / Áo trắng phôi pha, áo thành dĩ vãng / Để suốt đời, nặng nợ đa mang...! ”
Cái tình buồn lãng mạn ấy không chỉ đọng lại ở thuở áo trắng mà còn cả cái thời bình minh của cuộc đời Em về cho ai chơi vơi, Nắng chiêm bao, Em về tinh khôi,... là những bài thơ hay đều mang dự cảm chơi vơi: “ Em về bên ấy chiều nay / Một trời thương nhớ, heo may một trời / Câu ca mái nặng chơi vơi / Dòng sông như cũng rã rời, buồn tênh / Em về bên ấy nắng hanh / Hay mưa nhòa nhạt, chân thành ngày xưa / Em về buốt tím hoa mua / Đường côi mấy nẻo, gió lùa hồn anh”. (Em về bên ấy)