![](/uploads/editor/files/TKTS/danhhoa1/1235235363646636.gif)
Một chuyến công tác của phóng viên TTX Giải phóng
12/10/2020 23:45
Ngày 11 tháng 10 năm 2020, Thông tấn xã Việt Nam sẽ làm lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cho TTX Giải phóng. Xin trích giới thiệu một đoạn trong tác phẩm B trọc, của nhà văn Phạm Việt Long, nói về hoạt động nghiệp vụ của phóng viên TTX Giải phóng miền Trung trung bộ trong những năm tháng kháng chiến gian khổ và ác liệt.
![](/uploads/editor/files/TKTS/danhhoa1/1235235363646636.gif)
Tác giả (áo sẫm màu) và lão cán bộ Tuyên huấn khu V gặp nhau trong sự kiện Ban Tuyên huấn khu V đón nhận danh hiệu Anh hùng
NGÀY 12/4/1972
Cần có những bài ghi nhanh ngắn, sôi nổi phản ánh khí thế hiện nay, tôi đi Hoài Nhơn.
Anh Lợi gặp riêng, dặn dò thêm tôi một số vấn đề. Ngoài việc đi viết, tôi còn phải truyền đạt một số ý kiến của anh cho Huyện uỷ và nắm tình hình về báo cáo cho các anh. Anh cho biết: Đêm nay sẽ tổng công kích. Hoài Nhơn sẽ đánh lớn, trong đó có Đồi Mười, thị trấn Tam Quan, Trung đoàn bộ Trung đoàn 40. Khi ta đánh mạnh, địch sẽ co về giữ quận lỵ, căn cứ và các trục giao thông. Ban chỉ huy mặt trận tiền phương chỉ thị cho Hoài Nhơn: Giải phóng đại bộ phận nông thôn, tiến lên giải phóng hoàn toàn địa bàn. Tám xã phía Bắc có phong trào cao, cần phát triển xuống phía Nam. Không trông chờ các cú đấm quân sự mà phải chủ động hoạt động, từng xã chủ động tổ chức binh vận, tấn công và nổi dậy cho kịp thời cơ. Truy bắt cho hết bọn điệp ngầm. Trong 2 ngày 1 đêm phải tổ chức đào xong hầm hố chống phi pháo, rào làng chiến đấu. Ngày đêm đều cho quần chúng thanh viện, phát loa uy hiếp tinh thần địch. Huy động hàng loạt thanh niên vào việc vận chuyển lương thực lên căn cứ cách mạng. Du kích phải đứng trên đường số một, cắm biển ghi rõ "Vùng giải phóng", hoặc "Quân Giải phóng đang kiểm soát". Tôi ghi chép đầy đủ ý kiến chỉ đạo của anh Lợi và lên đường.
Trạm giao liên nằm ở một nơi thấp, bị núi chắn nên đêm nay tôi không thể nhìn xuống đồng bằng mà xem những chớp lửa tiến công của ta được.
NGÀY 14/4/1972
Về tới Hoài Châu, gặp dân, lại được sống trong không khí tấn công sôi nổi và trong tình thương yêu sâu sắc. Chốt Gò Vàng đã bị diệt. Chốt Liễu An đã tháo chạy. Bởi vậy, chúng tôi xuống núi rất sớm. Nghe tiếng súng nổ ròn ở phía đường cái - du kích đang đánh bọn địch rút chạy. Đồng bào thể hiện niềm phấn khởi ra mặt, cười nói hể hả. Tuy nhiên, cán bộ thì đang lo sốt vó. Thế là để xổng mất một chốt địch rồi! Nếu cứ để tiếp tục như vậy, sau này sẽ khó khăn cho ta, nhiệm vụ khởi nghĩa của địa phương không hoàn thành. Anh Đức chạy xuôi chạy ngược, đôi khi phải hò hét nữa, để đốc thúc công việc.
Khuya, xuống Tam Quan Bắc một cách dễ dàng.
NGÀY 15/4/1972
Đi tìm gặp bộ phận tiền phương của Huyện uỷ. Đang đi thì thấy từ phía thị trấn Tam Quan bùng lên một chớp lửa đỏ đậm và một tiếng nổ lớn. Tiếp đó, hàng loạt tiếng nổ hoà theo rộn rã: súng liên thanh, lựu đạn, B40... Lúc ấy là 1 giờ 10 phút. Địch hốt hoảng bắn đèn sáng rực.
Cùng với tiếng súng tiến công của quân Giải phóng, khắp nơi vang lên tiếng trống mõ, thanh la, thùng thiếc thanh viện của quần chúng.
Tiếng nổ vẫn rộn vang. Vào khoảng phút thứ 15, 20, một tiếng nổ lớn lại bùng lên, một khối lửa đỏ đậm phụt lên cao rồi khói đen, khói vàng cuồn cuộn bốc lên. Bầu trời đang được pháo sáng hắt vào tạo thành mầu trắng xanh bỗng mờ đi, chuyển thành mầu nâu sẫm. Khói bao phủ cả bầu trời thị trấn Tam Quan.
Ở một nhà, tôi thấy một bà già người nhỏ, ốm, cầm ra một miếng tôn lớn. Bà kêu: “Thanh viện đi chớ! Vả, sao không đánh đi?”. Bà dùng cây đập rất mạnh vào tấm tôn. Có lúc mỏi quá, bà đặt xuống nghỉ rồi lại đánh. Một ông già đem cái chuông đồng ra ngõ đánh kêu keng keng. Mọi người nói “Đem đến gần điểm đánh cho nó nghe rõ, nó sợ!” và xách dụng cụ ra ngõ đánh.
Khoảng 25 phút, trận địa im đi một lúc rồi lại rộ lên. Tiếng nổ nổi bật là tiếng mìn hoặc B40 - nổ rất to, bùng lên những khối lửa lớn. Rồi đến tiếng AK nổ đanh, gọn mà ấm. Có những tiếng đại liên xổ từng tràng dài.
Khoảng 4 giờ sáng thì cơ bản im tiếng súng. Địch phản ứng pháo rất dữ. Có 2 chiếc Đa cô ta bay cao tuốt trên trời, bật đèn đỏ lập loè, xổ ra hàng dây đạn lửa đỏ rực, rống lên ồng ộc.
Chúng tôi ra Trường Xuân để giảm bớt số người ở phía trước, đề phòng phi pháo. Trời gần sáng rồi. Vội vàng leo lên xuồng chống đi. Nước cạn quá, phải lội xuống đẩy. Lúc sâu lại leo lên chống. Người ướt mèm. Hừng đông rồi. Con sông nằm trong tầm mắt của 2 chốt địch. Súng nổ rộ khắp nơi. Chúng tôi cột thuyền, chạy lên bờ, vượt một bãi đất nữa rồi chạy dọc một mép sông. Nghe bên bờ bên kia có tiếng gọi: “Qua đây!”. Chúng tôi chạy qua. Đồng bào đã chờ sẵn. Giữa sông có một chiếc thuyền nhỏ đặt một mô hình khẩu súng lớn - có lẽ để nghi binh địch.
Vào xóm Xuân Lạc. Đồng bào đang chuẩn bị nổi dậy. Một phụ nữ vác một cái giáo dài, kêu: “Mau mau đi chứ!” Có những tiếng gọi nhau, tiếng chỉ thị tập trung đại đội, trung đội... Tất cả sắp xếp vào đội ngũ để có lệnh là tiến tới vây đồn địch.
Chiều, tôi làm việc với các đồng chí trong bộ phận tiền phương của Huyện uỷ, truyền đạt tinh thần chỉ đạo của Ban chỉ huy mặt trận tiền phương và nắm tình hình chung trong toàn huyện. Có những tin tức từ thị trấn Tam Quan báo về: Nhiều khu địch ở trong thị trấn đã bị đánh nát. Ta đánh tiêu diệt toàn bộ chi khu, đánh thiệt hại nặng quận lỵ. Diệt gọn 1 đại đội pháo Cộng hòa của tiểu đoàn 30 gồm 6 khẩu pháo. Diệt 1 đại đội Bảo an giữ chi khu. Tên thiếu tá chi khu trưởng, 2 tên cố vấn Mỹ và tên phó quận trưởng bị chết. 2 kho đạn, 1 kho xăng bị phá huỷ. Nhiều tên Bảo an khác bị diệt. Đồng bào xôn xao bàn tán, hả hê vui mừng trước thắng lợi của ta. Những bà mẹ, cô gái kể tội bọn ác ôn trong thị trấn cho chúng tôi nghe: đánh đập, lột quần áo, giam giữ, hạch sách...
NGÀY 16/4/1972
Ở tại thôn An Thái. Mới hôm qua, đồng bào chuyển thương binh tới đây chăm sóc để chuyển về tuyến sau. Ai cũng thấy rõ sức mạnh của ta, thấy sự suy yếu của địch. Bà con so sánh sự phản ứng của chúng bây giờ đã yếu hơn trước nhiều: “Trước kia mà đánh thế thì chúng vãi bom vãi đạn vào đây. Bây giờ thì chỉ có ít quả pháo”. “Trước kia mà đánh thế thì trực thăng nó chụp quân liền. Bây giờ cả ngày không có một chiếc!”.
Cô Canh về báo: du kích, đồng bào đã vây chặt chốt Tân Thành, Cống Thạnh.
Đêm 15 rạng 16-4, ta cũng đánh vào khu Nhà thờ Dốc (trụ sở của Trung đoàn bộ Trung đoàn nguỵ số 40). Sáng nay địch còn bắn pháo về phía đó, có lẽ ta còn làm chủ trận địa. Đường số một đã bị cắt đứt.
NGÀY 17/4/1972
Bộ đội đóng trong thôn. Anh em đều trẻ, khoẻ, chắc nịch. Sau khi đánh Tam Quan, anh em lại về phối hợp với du kích đi đánh bọn địch trài (nống ra xung quanh), đánh những đồn lẻ. Ngày nào địch cũng chết. Hôm kia, du kích bắn B40 vào chốt Công Thạnh, sập một số lô cốt, chết 6 tên. Hôm qua, du kích bắn cối vào Trung đội Dân vệ số 4 (người ta gọi là Trung đội thằng Trà, thằng ác ôn khét tiếng), chết và bị thương 6 tên. Các chốt khác cũng bị du kích ém, bia tỉa suốt. Địch rất hoảng sợ, xoay xở lung tung mong thoát chết. Chúng ra ngoài rào hoặc rúc trong bờ trong bụi mà trốn. Chúng kêu pháo, cối bắn lung tung. Sau nhiều năm im ắng, bây giờ pháo, cối lại nổ giữa thôn xóm. Một quả cối nổ trước sân bà Tịnh làm Bích bị thương.
Ngày ngày, đồng bào vẫn đi vây đồn bốt. Hai ngày đầu khí thế tốt, địch xoa dịu. Ở Mỹ Lộc, đồng bào đã giật lựu đạn của một tên lính. Nhưng hôm nay thì chúng quay ra đàn áp. Hai người đã bị thương vì chúng bắn. Nhiều người bị chúng đánh.
Ở miền Bắc, giặc Mỹ cũng leo thang bằng không quân, đánh tới Hà Nội, Hải Phòng, bị ta bắn rơi 12 chiếc, có một B52.
Gần đến ngày chết, kẻ địch dãy dụa thật điên cuồng. Nhưng chúng ta quyết làm quyết liệt hơn nữa. Đồng bào nói: “Cứ đánh tới đi, đừng dừng lại, đừng để chúng quay lại giày xéo bà con!”.
NGÀY 18/4/1972
Tôi về lại Hoài Châu. Tại các thôn An Quý, Liễu An, Tuy An, ta đã làm chủ vững, ở suốt ngày. Ngày hôm nay, ta đưa gia đình binh sĩ lên đồn Hy Thế đấu tranh. Mấy ngày nay, đồng bào vẫn kéo lên vây đồn bốt địch. Hôm vây chốt Hội An, có tới 6.000 người. Hôm vây chốt Hy Thế, đồng bào đã xông vào giật súng địch nhưng chưa được. Địch bắn chết 1, bị thương 2 người. Đồng bào kéo lên hỗ trợ cho Hy Thế, bọn Bình Đê bắn qua làm chết 2 phụ nữ. Hôm nay, đồng bào đưa xác chết lên Bình Đê đấu tranh.
Lúa ngoài đồng đang chín vàng. Một số đồng bào tạm nghỉ đấu tranh để đi gặt, đập. Trên mấy thửa ruộng, tiếng đập lúa đã vang lên thì thụp.
NGÀY 19/4/1972
Du kích bắn M.79 trúng vào một kho đạn của chốt Tân An. Bọn này vội bỏ chạy xuống chốt Hội An.
Hồi trưa, địch dùng ô tô chở quân và tre, cọc sắt xuống lăm le chốt lại Liễu An. Du kích bắn ra, chúng vội bỏ tre, cọc, lên xe chạy một mạch. Chúng gọi pháo bắn tới làm bị thương hai em nhỏ, chết một con bò.
NGÀY 20/4/1972
Gần sáng, đang ngủ tại An Quý thì nghe có những tiếng nổ lớn phía đồn địch. Choàng dậy nhìn về phía ấy. Những chớp lửa vẫn liên tiếp loé lên kèm theo những tiếng nổ vang. Không thấy tiếng súng nhỏ đáp lại. Nhưng khoảng 10 phút sau, nghe những tiếng súng của địch phản ứng rất dữ. Cây đại liên nổ hàng tràng dài. Tiếng M.79 nổ “Pốc...Đùng! Pốc... Đùng!”. Pháo từ Đồi 10, Nhà thờ Dốc bắn tới nổ chát chúa. Thỉnh thoảng lắm mới nghe tiếng lựu đạn.
Khoảng hơn một tiếng sau, nghe tiếng gọi người đi cáng thương. Ca thương đầu tiên đã về: đó là Đức. Gần sáng bạch rồi, vội chuyển về tuyến sau. Đức được đưa về trạm sơ phẫu. Đức nằm trong võng, đắp một tấm dù mỏng, người, mặt bôi nhọ nồi đen thui. Hai vết thương ở bên sườn và đùi còn chảy máu. Cô y tá rửa vết thương, Đức kêu:
- Nóng quá!
- Không nóng đâu, rát đấy!
- Không, nóng quá, rát tôi chịu được!
Đức cắn răng nằm im cho cô y tá rửa.
Lát sau, một cáng nữa về: Tài. Nghe có những tiếng xôn xao: “Chết rồi, chết rồi”. Có một người gọi: “Chết thì để lại cấp táng, đừng khiêng đi”. Tài chưa chết, chỉ lịm đi vì mệt quá - Tài đã bò từ đồn địch ra tới nhà cô Đượm - đoạn đường dài khoảng 1 km.
Chờ mãi vẫn không còn người nào về nữa. 5 đồng chí kia đã hy sinh!
Được tin địch khiêng xác 5 du kích lên Đồi 10. Bọn địch thường lấy xác anh em ta, bắt gia đình chuộc 5 - 7.000 đồng mới cho đem về chôn. Ban Binh vận xã cho người đi tìm cách đưa xác 5 anh em về. Xế chiều thì đã khiêng được về hết.
Lòng quặn đau khi nhìn những xác đồng chí mình đầy vết đạn, loang lổ máu. Thảo - xã đội trưởng - bị một viên đạn xuyên vào gò má bên phải. Mới cách đây ít lâu thôi, Thảo còn ngồi kể cho tôi nghe về chiến công của đội du kích xã tiêu diệt chốt An Quý, chốt cầu 99.
Đứng quanh xác đồng chí, những cô du kích khóc nức nở. Ai mà cầm lòng cho đậu khi phải vĩnh biệt những người đồng chí từng sát cánh chiến đấu với mình, từng chung vui, chung lo, nhường cơm xẻ áo cho nhau? Tôi cũng vậy. Tuy nhiên, tôi không khóc - tôi chưa hề khóc trước một cái tang nào, mặc dù những lúc ấy tôi thấy tim mình đau nhói, lòng mình quặn thắt. Có điều, tôi suy nghĩ, suy nghĩ triền miên. Suy nghĩ sâu nặng về cái sống và cái chết, về tình đồng chí, về công việc của mình. Đã nhiều lần tôi đi thẳng tới những nơi mà cái chết đang rình mò, lòng vẫn thanh thản và tự đặt cho mình 3 cách xử lý: một là, diệt địch để sống, hai là chạy thoát, ba là chiến đấu đến hơi thở cuối cùng.
Những người du kích đã hy sinh, nhưng quê hương còn ghi nhớ mãi chiến công của họ. Đêm ấy, họ không có B.40 vì cho xã bạn mượn - nên không diệt được lô cốt đại liên. Tuy nhiên, họ đã diệt được 6 lô cốt với 2/3 số địch trong Trung đội Bảo an đóng ở đây.
Tình hình vẫn phát triển rất thuận lợi. Ngày 19-4 quân ta đã giải phóng hoàn toàn huyện Hoài Ân. Ở ba xã phía Tây Bắc Hoài Nhơn này, địch rút chạy khỏi hàng loạt chốt, dồn xuống phía Dông.
Du kích An Quý kết hợp với du kích xã vẫn liên tục bao vây, bia tỉa địch ở Trường Cơ bản (chốt An Quý). Bọn địch đã bổ sung một số quân về đây, đang xây lại công sự. Bốn phát M.79 của du kích bia vào diệt được 2 tên địch. Chúng kêu pháo dập tới liên hồi. Chúng tôi nhìn thấy một ngôi nhà tôn tung lên rồi tan biến đi trong khói bụi. Thiệt dẫn mấy cậu du kích chạy về, thở hào hển rồi xây qua cười đùa ầm ĩ. Các cậu đua nhau kể lại cái nháo nhác của kẻ thù khi chúng bị bắn tỉa.
NGÀY 21/4/1972
Đang đi trên một bãi đất trống rộng thì thấy một quả đạn khói do cối bắn đến nằm giữa đường cái, cách chúng tôi không xa. Tưởng địch bắn điểm để kêu pháo, chúng tôi vội chạy xa chỗ đó, lao thẳng về phía luỹ tre bìa làng trước mặt, kiếm chỗ núp pháo. Chợt nghe hàng tràng đại liên nổ thẳng vào mình. Chúng tôi vội bật qua phải, chạy ngược về thôn Tân An. Tiếng súng nổ như bắp rang điên loạn: “Tốc... Tốc... Tốc... Tốc... Chíu... Chíu... Tốc...” Phần lớn đạn đi vọt qua đầu chúng tôi. Một quả M.79 rơi cách tôi chừng 2 mét, tung cát lên. Quái lạ, sao không thấy mảnh nào văng vào tôi cả. Bãi đất quá rộng, chạy muốn đứt hơi. Mãi đến khi chúng tôi chạy lọt vào xóm, tiếng súng mới dứt. Bác Tá mệt quá, vấp cái hè nhà ngã xóng xoài. Chúng tôi nằm dài trên giường, vừa tức vừa buồn cười. Thật tụi lính ngu như bò, đến giờ này rồi mà còn cầm súng theo giặc, còn ngoan cố bắn bừa bãi. Nhưng bọn mày bắn cũng dở ẹc. Nằm một lúc, nghe pháo nổ ùng oàng phía trong xóm. Có lẽ bọn địch đoán chúng tôi đã chạy tới đó nên kêu pháo bắn chặn. Sau loạt pháo, chúng tôi ra ngõ nhìn qua bãi trống. Phía xóm nhà bên kia, có những tốp lính mang ba lô đi vào cấm. Chúng đi vào lại đi ra, quanh quẩn 3, 4 vòng. Có một mũi tiến vào cấm, đi về phía xóm chúng tôi ở. Chúng tôi chào gia đình, đi lên giữa xóm. Nghỉ một lúc lâu, nghe một chị phụ nữ kêu: “Ai mặc đồ xanh đi ngoài kia kìa”. Tôi nhìn thấy ngoài rào cách nhà này mấy chục mét có một thằng lính cõng ba lô đi ngang qua. Lại rủ nhau chạy ngược lên Thành Sơn.
Đồng bào cho biết chính bọn này hồi trưa kéo lên Liễu An bị du kích bắn chết 2 tên. Mấy cậu du kích xách súng rượt bọn địch đông gấp mấy mình chạy tán loạn trên đồng, rượt tuốt tới đập nước.
Có lẽ địch muốn chốt lại Liễu An. Xã triệu du kích các thôn về bàn kế hoạch trị chúng.
NGÀY 25/4/1972
Về làm việc tại căn cứ của Xã ủy. Nhận được Chỉ lệnh của Tỉnh:
- Các gia đình quanh thị trấn về nông thôn.
- Đào hầm hào.
- Sắp tới có xe tăng của ta, chú ý tránh lầm với xe tăng địch.
Xã ủy họp gấp nghe sơ kết 10 ngày đầu của chiến dịch A1:
- Diệt, bức rút, bức hàng 42 chốt của địch.
- Trung đoàn 40 ngụy đại bộ phận bị diệt. Địch điều về Tam Quan 1 Liên đội Bảo an. Địch co cụm trong các chốt, phản ứng chủ yếu dùng cối, pháo bắn. Bọn Bảo an, Dân vệ chưa bị diệt gọn nhiều nên còn hung hăng, bị lừa bịp, thúc ép giữ chốt. Ngụy quyền: một số bị diệt, bị bắt, một số trốn sâu trong quận lỵ.
- Ta: Các thứ quân đều đồng loạt nổ súng. Quần chúng bao vây nhiều chốt điểm. Khá nhất là phía Đông - Nam, trong đó xã Hoài Hương đồng bào tước được súng địch, giải phóng toàn bộ địa bàn. Bộ đội chủ lực khi tiến công mới diệt được sinh lực địch nhưng chưa làm chủ được trận địa, chưa đánh ban ngày, thương vong nhiều. Bộ đội huyện diệt chưa gọn mục tiêu. Du kích xã, thôn: có lúc sử dụng còn lãng phí lực lượng, bổ sung quân chậm. Nổi dậy chưa liên tục, chưa thực hiện đầy đủ mục tiêu là bức hàng mà đại bộ phận là bức rút các chốt địch.
- Nguyên nhân: Cấp ủy còn đánh giá địch cao, chưa thấy hết khả năng của quần chúng và sự tan rã mau chóng của địch, sự phát triển mau chóng của tình hình. Xuất hiện tư tưởng thỏa mãn, mệt mỏi, ỷ lại lực lượng trên. Ý thức tổ chức, kỷ luật còn lỏng lẻo.
Huyện ủy chỉ đạo như sau:
- Quân sự: Đánh liên tục vào các mục tiêu và chống phản kích. Diệt ác. Xây dựng làng chiến đấu. Xây dựng đội ngũ dân quân.
- Quần chúng: Nổi dậy, dứt điểm từng xã một. Tước súng, phá đồn địch. Khi đã giải phóng được xã rồi thì cho 2/3 lực lượng sang hỗ trợ xã bạn. Đảm bảo chỉ tiêu đi dân công, thanh niên tòng quân (Dân công lúc nào cũng phải sẵn sàng - dân công dài hạn đi 2 tháng, ngày 27 tháng 4 phải có mặt, dân công thường trực ngày 30 có người nhận). Tiến hành thu nghĩa vụ lương thực trong 10 ngày, sau đó mua; Cấm chuyển gạo ra vùng địch.
- Binh vận: Chỉ thị cho các binh sĩ đã theo cách mạng hành động ngay. Phá rã các lực lượng quân sự phụ trợ.
Anh Đức phổ biến tinh thần chỉ đạo nói trên cho cán bộ xã và các thôn và mọi người nhanh chóng tỏa về địa bàn của mình để triển khai thực hiện.
Tôi hiểu rằng tình hình còn căng thẳng và quyết liệt nhưng trận bão tấn công và nổi dậy sẽ không kẻ địch nào ngăn chặn nổi.
NGÀY 27/4/1972
Bọn lính đóng ở chốt An Quý đã bỏ chạy. Khi chúng tôi đến, đồng bào đã san xong các lô cốt, đang vác cây về. Gặp một bà già người gầy, má hóp vác tới 2 cây lớn. Bà nói: “Tôi mừng quá, vác 2 cây”. Bà con đang rũ các bao công sự đổ cát ra, san lấp các chiến hào, dỡ rào thép gai chuyển đi rào làng chiến đấu. Mấy cô gái chỉ vào một cái tủ sắt lớn, nói:
- Bữa trước lũ nó bắt chúng em nhốt trong đó, nóng muốn chết.
Các cô phá banh cửa tủ, lật nhào nó xuống.
Ông già Mường mời bằng được chúng tôi về nhà ăn cơm. Ông cho biết ông có 4 người con, trong đó có một con gái đã hy sinh và nhà ông đã cháy 9 lần. Ông nói, hồi trước có lần ông phải đi moi mót từng củ sắn sượng mà nuôi con và bộ đội. Còn bây giờ, lúa rất nhiều, ông muốn 5, 7 bộ đội về ở nhà để ông nuôi.
Anh ông Mường khoe năm nay hoa sen nở nhiều. Ông Mường là trưởng xóm 3. Hồi trưa, tôi thấy ông tới hỏi anh Mai: “Số cây lớn để tập trung lại chỗ anh?” và chạy đi hô hào đồng bào vác cây dồn vào một đống.
NGÀY 28/4/1972
Hôm nay đồng bào đi vây đồn Quy Thuận. Tôi đi với đoàn của Hoài Sơn và Bình Đê. Tôi đem theo máy ảnh, muốn ghi cho được những hình ảnh về nổi dậy của đồng bào, đồng thời muốn đi cùng đồng bào để có tư liệu sống, viết cho chân thực và sinh động. Khá đông. Có cờ, băng rầm rộ. Khi đoàn đến gần chốt thì địch bắn cối 60 tới. Tôi đang đứng bên đường, vừa nói: “Bà con bình tĩnh, đừng chạy tản mát” thì nghe một tiếng nổ bụp. Nằm vội xuống, thấy bên kia đường cát bụi bay mù mịt. Tai ù lên. Quả cối chỉ nổ cách tôi 5, 6 mét nhưng nhờ nó nổ dưới lề đường nên tôi vô sự. Tình hình căng quá, phải tạm lui đội quân chính trị để đưa đội quân quân sự đến trấn áp bọn trong đồn.
NGÀY 29/4/1972
Nhận được lệnh về tiếp quản Bồng Sơn. Đi qua Hoài Hảo được biết đồng bào đang vây chặt đồn Mỹ Bình. Số đông đã vào được chốt. Lãnh đạo khéo có thể bốc hàng (tức là vận động được bọn địch đầu hàng).
Qua Hoài Thanh được biết có một Trung đội Dân vệ đã cầm súng về tập thể và một số khác khoảng 2 Trung đội về lẻ tẻ.
Pháo biển bắn vu vơ dọc đường, tiếng nổ rền hơn pháo đất.
Quân ta vây chặt khu Nhà thờ Dốc và lệnh cho địch 48 giờ sau phải đầu hàng. Chúng tôi đi gần nơi ấy, thấy điện vẫn sáng. Trên trời, một chiếc đa cô ta bay lượn dai dẳng, thả đèn dù liên tục và liên tiếp bắn xuống hàng dây đạn quanh cứ điểm.
Gặp anh Vân, Thường vụ Tỉnh ủy, được biết tình hình toàn huyện Hoài Nhơn từ đêm mở màn (12 tháng 4) đến nay như sau:
+ 10 ngày đầu: Đêm 12 tháng 4, bộ đội chủ lực đánh bọn Bảo an ở chốt Gò Vàng ( Hoài Châu) nhưng không gọn, đánh thiệt hại nặng 2 trung đội Bảo an, diệt 22 tên, làm bị thương 17 tên. Đêm 14 rạng 15 và đêm 15 rạng 16 đánh vào các vị trí then chốt như Tam Quan, Đệ Đức. Tại Tam Quan, ta đánh thiệt hại nặng 1 đại đội pháo binh, 1 đại đội Bảo an, tiêu diệt 80 tên. Đã tấn công 1 phần 5 số vị trí địch; riêng tại Đệ Đức, ta diệt 200 tên. Bộ đội địa phương diệt dược 1 chốt là đồi Giang Quang. Du kích xã chưa đánh chốt nào. Về nổi dậy, 10 xã phía Bắc đã họp quần chúng, phát lệnh khởi nghĩa, làm lễ ra quân ở 50 thôn. Ngày 13, quần chúng đã ra quân, bao vây 86 chốt và 5 trung đội địch trài ra ở các thôn xóm. 6 xã phía Nam, vùng địch kẹp chặt hơn, đồng bào cũng vây chốt Đồi Thường, Phú An và các thôn có bọn địch trài. Ở Đồi Thường, 7 trung đội Bảo an, Dân vệ ngoan cố dùng mù cay, đạn thẳng phản ứng, nhưng đồng bào kiên trì bao vây, binh vận suốt 2 ngày đêm, cuối cùng bọn địch phải chạy qua chốt Kim Giao; quần chúng san bằng đồn, thu chiến lợi phẩm. Quần chúng tấn công bọn địch ở Diêu Quang, chúng gọi pháo bắn bừa bãi, làm chết 3, bị thương 1 người. Quần chúng vác xác người hi sinh, xông tới, cho đạn vào lon, đốt quăng vào đồn, đạn nổ, địch tưởng là bị pháo kích, cuối cùng, chúng phải bỏ chạy. Tới 22 tháng 4, đã bức rút, san bằng 39 chốt và 4 điểm thôn trài.
+ Những ngày tiếp theo: Ngày 25 tháng 4, bộ đội chủ lực diệt gọn 1 Tiểu đoàn của Trung đoàn 41 chủ lực ngụy. Tới sáng 27, ta đã làm chủ đầu cầu nam Bồng Sơn. Chiều 27, một bộ phận quân ta đánh thọc từ phía Bắc xuống. Các đơn vị chủ lực đã ém sát các thôn quanh Bồng Sơn: Trung Lương, Thiết Đính, An Bình, Đệ Đức. Chiều 28, nổ súng tấn công một số đơn vị địch, như đồn Quân cảnh, Đại đội Bảo An ở An Tây. Ngày 29, các mũi tiến rất nhanh, nổ súng lùa địch chạy như vịt, có một số chạy về Đệ Đức, Tam Quan. Bọn ở đồn Quân cảnh, chi Công an ngoan cố đánh trả, bị ta tiêu diệt. Ta phong tỏa tất cả các địa bàn phụ cận, bọn địch chạy ra tên nào bị bắt tên nấy. Trong khi đó, đồng bào ở Bồng Sơn đình công, bãi thị, đồng bào các xã xung quanh dấu thuyền, không cho bọn địch dùng để tháo thân. Quần chúng phía Tây ém xuống, phía Bắc ém lên đường số một, chặt đứt giao thông của địch. Từng xã chịu trách nhiệm làm chủ từng đoạn đường chạy qua xã mình, không cho địch sử dụng.
17 giờ ngày 29 tháng 4, ta giải phóng Bồng Sơn.
NGÀY 30/4/1972
Có điện của anh Ba: Phải tổ chức trong quần chúng những đội cứu lính, dẫn lính, xáp vô các chốt dẫn lính ngụy về với cách mạng.
Không khí ngoại vi thị trấn Bồng Sơn đã khiến tôi náo nức. Bộ đội đào hầm dọc đường. Du kích cưỡi Honda ra vào thị trấn. Một toán tề, lính bị trói tay giải ra, nối nhau thành một dây dài. Số này còn rất trẻ, khoẻ.
Chiều, tôi nhờ người chở Honda vào thị trấn. Đầu thị trấn có một trạm kiểm soát người ra vào. Có nhiều người cưỡi Honda, xe đạp, gồng gánh sơ tán về Mỹ Thành.
Thị trấn là một dãy phố dài nằm dọc 2 bên đường số một. Nói chung, lúc này còn thưa thớt người - phần lớn đã sơ tán khi cuộc chiến xảy ra.
Gặp một xác lính nguỵ nằm ngửa bên hè. Xa đó một chút có một xác chết mặc quần áo thường dân, nằm úp mặt giữa ngã ba đường. Anh em bộ đội cho biết đó là tên thiếu uý đại đội trưởng đại đội cảnh sát quận Hoài Nhơn. Khi bị bắt, nó đập đầu vào tường tự sát. Lúc này, máu còn chảy xuống đường. Gặp một xác lính nguỵ khác ở một hè phố. Tên này mang một bao đồ nhỏ, ngã úp mặt xuống rãnh. Có lẽ nó muốn chạy trốn nhưng không thoát.
Cờ của ta được treo trước một ngôi nhà. Đó là nơi làm việc của Uỷ ban Nhân dân cách mạng thị trấn. Một lá cờ khác nhỏ hơn được treo trước Chi Thông tin quận. Chi Cảnh sát ngổn ngang ảnh, tài liệu. Một chiếc xe gíp cháy còn bốc khói. Tôi vòng ra sau nhà, thấy có 2 hầm dài địch dùng để ngủ. Đồ đạc, màn vải... vứt bừa bãi. Những bao súng vứt lung tung.
Gặp 2 thanh niên bị thương nhẹ. Họ nói họ là Dân vệ, bị thương vì pháo, đã ra trình diện với cách mạng. Một người khác dẫn chúng tôi đi tiếp quản Chi Thông tin. Anh ta nói anh ta làm nhân viên kỹ thuật của Chi này, cũng đã trình diện với cách mạng.
Ba tên khác hỏi thăm nơi đến trình diện. Một tên mặt to, da láng bóng. Đồng bào cho biết đó là tên thiếu uý cảnh sát rất gian ác.
Bắt về 3 tên nữa. Một tên có bộ ria mép con kiến, bị còng. Chúng nói chúng là dân thường. Đồng bào báo chúng là cảnh sát. Chúng tôi giải thích: “Bây giờ chưa rõ, chúng tôi tạm giữ các anh, để kiểm tra sau. Nếu các anh là dân thường, các anh sẽ được thả”.
Phía cầu, có một số bộ đội gác. Dây thép gai dăng ra một phần đường, chỉ để một lối đi nhỏ.
Tôi đi nhờ một xe lam. Xe này chạy tới nhà thương chở thương. Ở đây còn một số người bị thương, địch không chuyển đi. Người ta khiêng ra một thanh niên. Một người đàn ông nói: “Nhờ Cách mạng cứu mới sống đây”. Xe vội vàng chuyển bánh về phía Long Mỹ - vùng giải phóng - chở người bị thương về nơi cứu chữa.
Tôi ở tại ấp Thiết Đính. Ông già chủ nhà có một con trai đi Dân vệ, một con trai và một con dâu chạy lạc. Còn vợ ông và 4 đứa con nhỏ mới đi sơ tán về. Ông hỏi tôi: “Lá cờ này trót vẽ, bây giờ xoá đi chứ?”. Tôi gật đầu. Ông lấy xẻng nạo tường cho tróc nước sơn vẽ lá cờ nguỵ đi.
Hồi chiều, vào một nhà gặp mấy bộ đội đang ngồi uống nước. Đồ đạc trong nhà còn nguyên vẹn. Mấy anh nói:
- Chúng tôi chiếm khu phố này ngay từ đầu. Ngôi nhà này chúng tôi ở suốt nên đồ đạc không bị phá phách.
Trên đường phố, có những thanh niên khoác súng, đeo băng đỏ: “Trật tự viên” đi lại. Một Honda chở 2 người vừa đi vừa gọi loa: “Lệnh không ai được lục lọi, phá phách các nhà”. Một xe lam của thông tin chạy trên đường phố gọi loa binh vận, loan tin chiến thắng.
NGÀY 1/5/1972
Con trai ông già chủ nhà tôi ở đã về. Cả nhà đều vui mừng. Anh ta có lẽ đã quen sống với bộ đội qua mấy ngày được dẫn đi nên đối xử với chúng tôi khá tự nhiên. Anh ta nói tên Trung đội trưởng ngăn anh ta đã bị anh ta bắn cho một băng đạn, gục trước cửa hầm.
Ngay buổi chiều, anh Ngô - anh lính dân vệ mới trở về - xoay trần ra mà làm thịt vịt liên hoan. Ngô có vẻ thành thạo về việc nấu ăn. Còn vợ anh ta cứ chạy lăng xăng bên cạnh. Không khí gia đình vui, cảm động như bất cứ gia đình nào có người đi xa về. Vợ anh Ngô nói anh Ngô đã trốn lính suốt 4 năm - 4 năm nằm hầm - cuối cùng cũng bị bắt.
12 giờ trưa hôm nay, Tam Quan đã được giải phóng.
NGÀY 2 ĐẾN 3/5/1972
Bộ đội tiếp tục tảo trừ. Nhiều nơi còn địch lẩn trốn. Nhà thuốc Vinh - nhà của tên đại uý kiêm tư bản - không biết vì cớ gì đó cháy đùng đùng, nổ bôm bốp. Vẫn còn những người tay đùm tay mang chạy tất tưởi trên đường. Ở nơi đón tiếp ngụy quân, ngụy quyền, tiếp tục có những người làm cho địch đến trình diện. Nhiều tên thực thà khai báo - trong đó có ấp trưởng Hoài Mỹ - đã được thả tại chỗ. Suối 2 ngày nay, số người trình diện về nườm nượp, ghi không kịp nữa.
Trưa 2 tháng 5, ta làm chủ căn cứ Đệ Đức. Chiều, bọn tàn binh tập hợp nhau lại được 2 tiểu đoàn, dắt díu nhau chạy về phía Hoài Xuân. Anh Sơn - cán bộ Tỉnh đội - chỉ huy bộ đội địa phương chặn bọn chúng lại. Chúng chạy thành từng tốp, vừa chạy vừa giơ tay đầu hàng, nhưng nếu thấy ít bộ đội thì chúng bắn trả và chạy tiếp, thấy nhiều bộ đội thì mới hàng thật. Chúng bắn anh Sơn hy sinh. Du kích diệt một số, bọn còn lại chạy về Hoài Hương. Lập tức, ta trang bị súng cho cán bộ và quần chúng. Đồng bào các xã Hoài Hương, Hoài Thanh, Tam Quan Nam chặn đánh địch suốt đêm, mỗi xã diệt trên 30 tên địch. Tuy nhiên, bọn tề điệp vẫn còn có tên ngoan cố, dùng thuyền chở 6 chuyến giúp bọn tàn binh ngụy chạy trốn.
Gặp một số binh lính của Trung đoàn 40 nguỵ đóng tại căn cứ của trung đoàn ở Đệ Đức ra hàng. Họ mặc quần áo thường dân. Họ cho biết hầu hết lính đều muốn ra hàng nhưng bị bọn chỉ huy o ép rất dữ, rào lại, gài lựu đạn, mìn ở cửa, cấm không cho ra ngoài. Trong khi đó pháo của ta bắn tới rất dữ dội - tối qua, sáng nay pháo đã làm nổ tung kho xăng, đạn. Ngồi tại đây, tôi nghe rất rõ tiếng pháo ta đề pa, bay đi vun vút, nổ ùng ùng ở căn cứ địch.
Chừng 4 giờ chiều 2/5, có 3 chiếc khu trục và một chiếc L.19 quần lượn ở bầu trời thị trấn Bồng Sơn. Tôi phóng xe lao về phía Thiết Đính thì nghe bom rơi xoèn xoẹt. Xuống xe, nằm xuống, nghe bom nổ rền trước mặt, cách vài trăm mét, khói bụi tung lên mù mịt. Chưa kịp tìm thấy hầm hố đã nghe máy bay lao xuống. Bom lại nổ trước mặt. Tôi nhìn rõ cùng với khói, bụi, các mảnh tôn, bìa, gạch ngói bay tung lên như bươm bướm. Mảnh bom rơi rào rào. Lợi dụng lúc máy bay quần lượn, tôi lên xe phóng về phía đường số một, quặt ra Tam Quan. Lát sau, thấy một ông già đứng ngoài cửa, tôi hỏi:
- Có hầm không?
- Có!
Tôi xuống xe, dắt xe vào nhà và chui vào hầm. Chỉ nghe một tiếng “thịch”, và thấy đất rung chuyển. Sau đó, chỉ nghe máy bay bay lượn trên cao. Ra đường nhìn, thấy bầu trời đầy những tàn lửa đen thui bay chấp chới. Một ngôi nhà bên đường cách nhà chúng tôi mấy chục mét đang cháy rừng rực, nổ đùng đùng. Lá, gạch phủ đầy đường. Có nhiều người dân kêu khóc, chạy về phía chúng tôi. Tôi chạy tới một ngôi nhà sập, thấy một phụ nữ mình đỏ máu, bồng một đứa nhỏ, kêu:
- Cứu con tôi với.
Một thằng nhỏ chừng 6, 7 tuổi khóc, níu lấy tôi:
- Chú ơi, chú cứu em cháu dưới hầm với!
Tôi tới hầm, thấy một em trai 3, 4 tuổi bị thương ở trán đang khóc. Chui xuống bế nó lên. Nó ôm chặt lấy tôi, nín khóc, một mắt bị dính đầy máu. Chúng tôi chạy ra xa nơi nhà sập. Tôi lấy băng, xé đôi, băng cho chị phụ nữ và thằng nhỏ. Còn đứa bé bế trên tay bị thương nhẹ vào sườn, không có băng để băng. Đứa bé mặt xanh mét, nằm im, không khóc. Chỉ có mẹ nó và thằng anh 6, 7 tuổi là khóc. Tôi cố an ủi cho họ nín. Áo tôi dính đầy máu.
Trở về. Qua ngôi nhà cháy. Trước ngôi nhà, một xe lam cháy rụi. Trong thùng xe, một xác đàn ông cháy đen.
Một phụ nữ bị thương nhờ tôi chở đi. Đi ra xa thị trấn, tôi dừng lại, xin băng của anh em băng cho chị. Chị bị thương ở gần bả vai và bên hông.
Nghe tin ta đã chiếm khu Nhà thờ Dốc (căn cứ Đệ Đức) và tin ta đã giải phóng hòan toàn tỉnh Quảng Trị.
Kẻ địch sắp đến ngày diệt vong. Nhưng như con chó điên rẫy chết, chúng cắn càn. Đồng bào ra 2 bên đường đào hầm hào.
Hà Huệ, Từ Quốc Hoài, Đoàn Tử Diễn lần lượt trở về. Diễn bị một mảnh bom nhỏ làm chảy máu ngón chân cái, bị gạch rơi sưng đầu và rơi mất chiếc đồng hồ. Huệ và Diễn đều bị mất xe đạp.
Con gái và con rể ông già cũng đã về. Thế là gia đình này được đoàn tụ. Cô con gái vừa cười vừa kể những ngày chạy lạc vất vả: nằm trên nền xi măng không có chiếu, muỗi nhiều, lạnh, không có củi nấu ăn có bữa phải nhịn, pháo biển bắn vào không ngủ được... Anh con rể kể cảnh chạy lộn xộn, cảnh bọn lính chạy lộn vào để thoát thân. Anh nói:
- Chúng tôi chạy vào nhà Mỹ ảnh, đóng cửa lại. Tụi lính kêu mở cửa. Thày Chùa la: “Lạy các ông, các ông đi nơi khác không có làm chết lây chúng tôi”. Chúng chĩa súng bắn vào rẹt rẹt. Thày Chùa bàn: “Nếu không mở cửa, chúng sẽ bắn chết. Thôi, mở rồi chạy”. Cửa vừa bật ra, chúng tôi chạy vội ra, tụi lính ập vô. Không nhà nào dám mở cửa vì sợ tụi lính chạy vô. Chúng tôi chạy lung tung, ra tới Kim Giao.
Trong ngày 1/5, tôi thấy một ông già vứt từ trong nhà ra một đống súng, đạn, áo quần lính. Tôi hỏi:
- Có kẻ nào lẩn trốn trong nhà không?
Ông già ghé miệng qua kẽ cửa (cửa nhà vẫn đóng chặt), nói:
- Tôi có thương các ông mới đưa súng đạn ra. Nếu có kẻ nào lẩn trốn, đời nào tôi lại để im?
Trên đường phố đã có những cổng chào, những khẩu hiệu của ta.
Mấy ngày nay, địch vẫn tiếp tục oanh tạc thị trấn. Cầu dài Bồng Sơn đã bị sập một nhịp.
Trong đợt tổng tấn công và nổi dậy này, chúng ta đã phá rã 56 trung đội Phòng vệ dân sự, 30 trung đội Thanh niên chiến đấu, bắt 190 ác ôn quận, 40 ác ôn xã, 15 ác ôn quân đội (cấp úy), 15 ấp trưởng, bức hàng, tước súng 447 tên, diệt tại chỗ 23 ác ôn, thu 2.736 súng, thu nhiều đạn, bức rút 62 chốt, bức hàng, tước súng 3 chốt, phá rã 3 chốt. Tính chung cả 3 thứ quân, đã đánh 23 trận, diệt 2.263 tên địch, làm bị thương 1.708 tên, bắt và diệt 550 tên ác ôn, diệt gọn ban chỉ chuy Trung đoàn bộ trung đoàn 40 chủ lực ngụy cùng nhiều đơn vị khác, phá hủy và thu hàng nghìn khẩu súng các loại. Về nổi dậy, chỉ từ 25 tháng 4 đến 2 tháng 5, quần chúng đã bắt 500 tên ác ôn, có 190 tên cấp quận, gọi hàng 800 tên, bắt 180 tên tàn quân, tước 500 khẩu súng. Trong thành tích diệt địch và tước súng, một nửa là của quần chúng và một nửa thuộc các lực lượng vũ trang. Toàn bộ hệ thống ngụy quyền xã, thôn đã tan rã và ra trình diện với chính quyền cách mạng. Trong khi đó, tỉnh và huyện đều chú ý chỉ đạo xây dựng vùng giải phóng: thu mua được trên 150 tấn gạo, huy động gần 2.000 lượt người đi dân công, bổ sung cho tỉnh một đại đội bộ binh, huy động được 377 thanh niên đi bộ đội chủ lực, bổ sung cho bộ đội địa phương 338 chiến sĩ. Các xã Hoài Châu, Hoài Hảo, Hoài Hương, Hoài Tân, Hoài Xuân, Hoài Sơn, Hoài Thanh, Hoài Mỹ, Hoài Đức, Bồng Sơn, Tam Quan Bắc, Tam Quan Nam, mỗi xã đều có 2 trung đội du kích xã. Trong 83 thôn của huyện có 80 trung đội và 20 tiểu đội du kích thôn, với 2.800 chiến sĩ. Phát triển được gần 10 nghìn hội viên các hội nông hội, phụ nữ, công đoàn, thanh niên, thiếu niên.
NGÀY 4/5/1972
Sáng sớm, chúng tôi đi Tam Quan. Con đường số một vẫn nườm nượp người và xe cộ. Qua trụ sở Trung đoàn 40. Khu vực này rất rộng. Nằm sát đường có lẽ là khu gia binh. Bom đạn cày tung lên tất cả. Tất cả biến thành tro bụi. Còn nhiều đám cháy nghi ngút. Còn nhiều xác nguỵ nằm ngổn ngang. Người gồng gánh, xe cộ chen nhau mà đi tản cư. Suốt mầy ngày nay, máy bay thi nhau oanh tạc khu vực này.
Tuy giải phóng sau, Tam Quan vẫn có nhịp sống sôi nổi và đĩnh đạc hơn ở Bồng Sơn. Ở Bồng Sơn còn có vẻ gì đó hơi ngơ ngác, sợ sệt. Còn ở đây, người ta hớn hở, cởi mở, vui ra mặt. Điều nổi bật là dọc phố có rất nhiều băng lớn với những dòng chữ:
- Hoan nghênh quân giải phóng đánh mạnh thắng to.
- Nhiệt liệt hoan nghênh và ủng hộ chính quyền cách mạng.
- Toàn dân kiên quyết giữ vững vùng giải phóng.
Các nhà đều treo cờ, các tường đều dày đặc khẩu hiệu. Người ta vẫn giữ nhịp sống bình thường: sửa đồng hồ, bán giải khát, chữa xe. Bên cạnh đó, có cái mới: nắn nót viết khẩu hiệu, bản tin, hì hục đào hố cá nhân dọc đường. Một số thanh niên biết lái xe thì hăm hở ra lái xe lam, xe Zép, GMC tới dốc thu chiến lợi phẩm cho bộ đội. Hảo - con trai nhà ảnh Kim Môn - kể rằng tại đó còn rất nhiều đồ dùng quân sự: xe tăng, pháo, máy bay, lương thực, thực phẩm... Một quả bom xăng nổ giữa đường, cách xe cậu ta chừng vài mét, phụt lửa lên. Nếu là bom mảnh chắc đã chết - cậu ta cười, bảo vậy.
Tôi vào một nhà. Nhà có 2 vợ chồng và mấy đứa con. Hai vợ chồng ngoài 40 tuổi, khá cởi mở. Họ nói, một nửa gia đình họ ở miền Bắc. Ông chồng kể: “Bữa ấy, 8 giờ sáng chúng rút, bắn lọan xạ mà chạy. Mọi người đều đóng cửa chặt, nằm trong nhà. Tôi đứng trên bàn ghé mắt qua khe tường, thấy chúng xô nhau chạy. Tiếc quá, nếu bộ đội tới sớm, chắc chúng không chạy thoát. Một số du kích chặn chúng nhưng không nổi. Có chừng một Trung đội chủ lực là diệt gọn bọn này”. Bà vợ cãi: “Chỉ cần một Tiểu đội thôi!”.
Ông già chủ nhà tôi ở đã ngoài 70. Ông nói: “Bữa ấy uổng quá, tôi không kịp lấy khẩu súng ngắn của thằng lính. Nó chết ngoài đường. Tôi bò ra, gần tới nơi thì phải quay vô vì có hai thằng lính dìu một thằng khác tới. Hai thằng lượm mất. Lên tới quận, chúng cũng chết”.
NGÀY 6/5/1972
Tới Đệ Đức, căn cứ của Trung đoàn 40 thuộc sư đoàn 22 quân chủ lực nguỵ. Khu vực này rộng hàng mấy cây số vuông, trọc lốc cây cối, nát nhừ gạch ngói vì bom, đạn. Trên đường đi vào “Trại Bắc Tiến”, không thể nào không bịt mũi và vẫn không thể nào cản được mùi hôi thối khăn khẳn xộc vào mũi - có nhiều xác lính chết rập dưới các đống tôn, gạch. Gặp mấy bộ đội. Họ đòi bằng được chúng tôi chụp ảnh cho để kỷ niệm những ngày vinh quang này. Rồi họ nói:
- Các đồng chí làm gì thì làm cho nhanh rồi về sơm sớm kẻo máy bay sẽ tới ném bom đấy.
Đi trên những con đường trải nhựa rộng thênh thang, lỗ chỗ những vết đạn pháo. Gặp hai chiếc xe tăng còn nguyên vẹn nằm im lìm bên trận địa pháo. Thấy 2 khẩu pháo 105, một khẩu đã xẹp lốp, gục nòng xuống và một khẩu còn nguyên vẹn. Đạn pháo rất nhiều, đạn trần có, đạn để trong hòm có.
“Trại Quang Trung” cũng bị tan nát như thế. Nhiều xe Zíp, GMC cháy đen, đổ ngổn ngang. Nhiều đạn cối 60, 81 nằm lung tung. Ở một căn hầm sập, tôi thấy chất đầy những hòm đạn AR15. Gần một ngôi nhà, xác một tên lính nằm chổng mông lên trời, cháy vàng như chó thui. Thỉnh thoảng còn nghe những loạt súng, những tiếng lựu đạn nổ - bộ đội tảo trừ. Rải rác trong các hầm ngầm còn địch lẩn trốn. Thỉnh thoảng có những tên chui lên đầu hàng.
NGÀY 7 - 9/5/1972
Trên đường phố, đồng bào tiếp tục dựng lên những cổng chào bằng gỗ chắc chắn và kẻ khẩu hiệu bằng sơn. Ở chiếc cổng chào gần quận, người ta treo cả đèn nêông. Lại được sống những ngày na ná như ở Hà Nội. Có nước đá, chè đậu xanh, có điện, có phở, có xe đủ loại... Đến các hiệu may đều thấy đang bận rộn may cờ Giải phóng.
NGÀY 10/5/1972
Xẩm tối, đi xe Lam về Bồng Sơn. Thêm những ngôi nhà sập vì bom. Nhiều xe lam chở đầy ắp hàng hoá hối hả chạy về Tam Quan. Có những xe Honđa cột cồng kềnh những hòm xiểng, gỗ, tôn chạy về phía Mỹ Thành.
NGÀY 11 - 14/5/1972
Đi về tỉnh. Qua các vùng trắng trước đây của Hoài Ân thấy đã có những thay đổi. Có những ngôi nhà tranh sơ sài được dựng lên và những vạt đất mới phát.
Tất nhiên, trong những ngày đầu này, cuộc sống còn nhiều khó khăn. Ở chân đồi Thánh Giá, khu chuồng bò lúc này trở thành khu tạm cư của một số đồng bào bị dồn trong các ấp Long Mỹ, Long Khánh... Số này trên đường về Ân Hoà, Ân Hảo dừng lại để ra đồng mót lúa, kiếm thêm lương ăn cho những ngày sắp tới - những ngày chiến đấu với sự hoang vu mà làm nên cơ đồ.
Phạm Việt Long
Bạn đang đọc bài viết "Một chuyến công tác của phóng viên TTX Giải phóng" tại chuyên mục Văn hóa - Văn nghệ.
Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.