La Sơn Phu Tử: Một nhân cách lớn

20/05/2019 15:54

Theo dõi trên

Nguyễn Thiếp sinh năm 1723, quê làng Nguyệt Ao, nay là xã Kim Lộc, huyện Can Lộc, Hà Tĩnh, hiệu Húy Minh, tự Quang Thiếp. Ông còn có nhiều tên khác. Riêng Nguyễn Huệ gọi ông là La Sơn phu tử, sau lại ban cho tên là La Sơn tiên sinh.

 
Ảnh Internet

Lúc nhỏ, Nguyễn Thiếp và ba anh em trai nhờ có mẹ chăm sóc và chú kèm cặp nên đều học giỏi. Không may chưa được một năm thì ông chú qua đời. Nguyễn Thiếp đau buồn, phát bệnh điên, bỏ đi lang thang. Năm sau Nguyễn Thiếp ra Vinh thi hương, đoạt giải, nhưng ông không tiếp tục thi hội. Ông trở về quê chuyên đọc sách tính lý, tứ thư, ngũ kinh đại toàn... và làm thơ. Dấu chân ông đặt gần khắp sông núi miền Nam châu - phía nam Hồng Lĩnh. Ít lâu sau ông lấy vợ là bà Đặng Thị Nghi, con gái trưởng Thái Lộc Đặng Thái Băng ở Uy Viễn, Nghi Xuân.
 
Đến năm Mậu Thìn (1748) ông ra Bắc Hà. Theo Hoàng Xuân Hãn thì vào năm ấy Nguyễn Thiếp có đi thi hội và đỗ cao. Ông không ra làm quan mà trở về dạy học. Lúc này bác ông bị kiện, ông bực mình và bệnh lại tái phát. Tuy vậy, ông vẫn chăm đọc sách và suy ngẫm về đạo. Năm 34 tuổi Nguyễn Thiếp được bổ huấn đạo Anh Đô (phủ Anh Sơn, Nghệ An). Tuy thích sống ẩn dật, nhưng thày học là Nguyễn Nghiễm thúc giục, nâng đỡ, nên ông lại ra thi hội, rồi ra làm quan vì nhà quá nghèo. Làm huấn đạo 6 năm, đến năm Nhâm Ngọ (1762) ông được bổ tri huyện Thanh Chương. Dù vậy ông vẫn không hề nguôi ý chí ở ẩn nên cố tìm đất lập trại ở Bùi Phong, trên dãy Thiên Nhẫn. Đến tuổi 46 ông xin từ quan vì bệnh cũ lại tái phát. Ông là người có lòng ưu ái, muốn đem sở học để cứu đời giúp dân. Nhưng sống trong cái thời nhiễu nhương nên ông lại muốn sống ẩn dật. Hơn nữa lúc đó Lê Duy Mật đưa quân xuống đánh các huyện Hương Sơn, Thanh Chương là nơi ông đang trị nhậm và thày học là Nguyễn Nghiễm lại được chúa Trịnh sai đi dẹp.
 
Trại Bùi Phong của ông trên dãy Thiên Nhẫn có ghềnh suối ẩn kín, không hổ báo quấy nhiễu, có đất trồng cây, có khe đánh cá. Khi con cái trưởng thành, ông vời lên cùng tăng gia trồng cây, cày ruộng, nuôi bò, dệt vải... Ngày ngày ông đọc sách, dạy vài ba học trò lớn nhỏ, và chiều chiều dạo bước ngắm cảnh núi non hùng vĩ. Nhờ thế bệnh cũ khỏi hẳn.
 
Từ đấy, Nguyễn Thiếp nổi tiếng là vị cao ẩn. Người ta gọi ông là Lục Niên tiên sinh. Vào năm 1780, năm Canh Tý ông được chúa Trịnh Sâm triệu ra Thăng Long và đến tháng hai năm sau ông lại trở về. Năm 61 tuổi ông thu thập văn thơ, soạn thành tập Hạnh am thi cảo và viết bài Hạnh am ký lược thuật cuộc đời mình qua 60 năm bất như ý.
 
Từ lúc quay về sơn trại, ông sống trong cảnh nghèo túng và buồn phiền vì dân tình quốc biến.
 
Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc diệt Trịnh. Nguyễn Huệ sai sứ đưa thư và vàng, lụa lên sơn trại mời Nguyễn Thiếp ra giúp việc. Ông gửi trả phần vật, viết thư phúc đáp thoái thác, vì lý do kém cỏi, tuổi cao, yếu đau và phải lo hương hỏa, gia đình. Lần thứ hai, rồi lần thứ ba, Nguyễn Huệ lại gửi thư, sai sứ đến mời Nguyễn Thiếp ra giúp nước. Lúc này Nguyễn Huệ đã xưng là Chính Bình vương, nhưng trong thư Nguyễn Huệ vẫn tỏ rõ thái độ chân thành và kính trọng hết mực. Thế mà Nguyễn Thiếp vẫn không chịu ra!
 
Đến tháng tư năm Mậu Thân (1788), trên đường ra Thăng Long trừ Vũ Văn Nhậm, dừng lại Lam Thành (Hưng Nguyên), Nguyễn Huệ bèn gửi thư mời Nguyễn Thiếp xuống hội kiến. Lời thư vẫn tha thiết: "Nay thiên hạ khốn khổ, không cùng phu tử cứu gỡ thì không biết cùng ai...". Không thể từ nan, ông đành xuống núi. Vừa gặp mặt, Nguyễn Huệ trách ngay: "Đã lâu nghe đại danh. Ba lần cho tới mời, tiên sinh không thèm ra. Ý tiên sinh cho quả nhân là thằng giặc nhỏ, không đủ làm kẻ anh hùng trong thiên hạ chăng?". Nguyễn Thiếp trả lời: "Hơn 200 năm nay quyền về tay họ Trịnh hung bạo. Vương mới đưa quân ra một lần mà dứt được, lập lại nhà Lê. Với danh nghĩa là anh hùng thì ai lại chẳng theo, nói dối tôn vua để lấy tiếng thì hóa ra là một kẻ gian hùng". Nguyễn Huệ bèn đổi sắc mặt, ngồi dịch ra và tiếp đãi rất trọng. Tuy vậy Nguyễn Thiếp vẫn chưa chịu ra giúp. Nguyễn Huệ không thất vọng, vẫn ủy cho ông việc chọn đất dựng đô ở Phù Trạch (Lam Thành), rồi ở Yên Trường (tức là Phượng hoàng Trung đô).
 
Cuối tháng mười năm ấy hai mươi vạn quân Thanh theo chân Lê Chiêu Thống kéo vào Thăng Long. Ngày 25 Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế ở Phú Xuân, lấy niên hiệu Quang Trung, rồi gấp rút hội quân thủy bộ thần tốc tiến ra Bắc. Đến Nghệ An, Nguyễn Huệ triệu Nguyễn Thiếp đến hỏi phương lược. Nguyễn Thiếp dõng dạc trả lời: "Người Thanh ở xa tới, mệt nhọc, không biết tình hình khó dễ thế nào, thế nên chiến thư tiến vào. Và nó có bụng khinh địch. Nếu đánh gấp thì không ngoài mười ngày sẽ phá tan. Nó trì hoãn một chút thì khó lòng mà được nó". Huệ mừng lắm, trả lời: "Ông nói hợp ý tôi".
 
Sau ngày đại thắng quân Thanh, vua Quang Trung về đến Nghệ An vào tháng ba, lại sai sứ đến mời Nguyễn Thiếp đến bàn quốc sự. Vua Quang Trung ban thưởng cho Nguyễn Thiếp nhiều bổng lộc, nhưng ông dâng sớ từ chối. Nhà vua lại xuống chiếu bắt ông phải nhận: "Trẫm ba lần xa giá Bắc Thành, tiên sinh đã chịu ra bàn chuyện thiên hạ. Người xưa bảo rằng: "Một lời nói mà dâng nổi cơ đồ". Từ đó Nguyễn Thiếp đã thực sự cộng tác với Tây Sơn. Nguyễn Huệ rất trọng vọng và muốn dùng tài năng của ông, đồng thời muốn dùng ảnh hưởng của ông để chiêu tập sĩ phu Bắc Hà vốn kính trọng ông.
 
Vào tháng 7 năm Tân Hợi (1791) tiếp chiếu triệu của vua Quang Trung, Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân. Ông dâng lên vua ba việc thiết yếu: một là quân đức, hai là nhân tâm, ba là luận học pháp. Sau cuộc hội kiến chưa đầy 10 ngày, Nguyễn Thiếp về đến sơn cước thì vua Quang Trung đã có chiếu truyền: "Ông tuổi, đức đều cao, tất cả sĩ phu đều trông ngóng như núi Thái Sơn, sao Bắc Đẩu. Nay trong nước đã yên, trẫm toan hưng khởi chính học. Ông đã lấy học thuật biện rõ bên tà, bên chính. Nay ban cho ông làm chức Sùng chính viên Viện trưởng. Cho ông hiệu La Sơn tiên sinh và giao cho ông chuyên coi việc dạy học".
 
Nhà vua lại ủy cho ông tổ chức việc dịch ra quốc âm và chú thích sách tiểu học, tứ thư và các kinh thư, thư dịch, đồng thời giúp việc dịch thuật cho Hoàng giáp Bùi Dương Lịch, cùng với việc lập trường (tức là như thư viện bây giờ), dịch sách theo lời tâu của Nguyễn Thiếp. Vua Quang Trung rất chịu đọc sách. Chắc lúc này Nguyễn Thiếp cũng có phần thỏa chí!
 
Vua Quang Trung đồng ý để Nguyễn Thiếp vẫn ở sơn trại mà vẫn có thể đem sở học ra thi thố giúp đời. Tiếc thay cuộc gặp gỡ chưa được bao lâu thì vua Quang Trung đột ngột qua đời vào ngày 29-7 năm Nhâm Tý (16-9-1792). Mấy tháng sau, khi đã minh lăng Quang Trung, Nguyễn Thiếp trả hết bổng lộc, sống cảnh nghèo túng trên Bùi Phong, dạy học và đọc sách. Tuy vậy, các trấn quan Nghệ An vẫn kính trọng ông và vào dịp tết luôn gửi tiền và vật phẩm lên biếu. Lúc này Nhà Tây Sơn suy yếu dần, vua Cảnh Thịnh nhỏ tuổi bèn xuống chiếu vời Nguyễn Thiếp vào Phú Xuân để "...trông mong tiên sinh vào giúp đỡ và khuyên bảo". Khi Nguyễn Thiếp vào đến nơi, Quang Toản (tức vua Cảnh Thịnh) hỏi về quân sự. Cụ trả lời: "Không thể làm được". Cụ khuyên vua nên trả lại đất đã xâm chiếm, lui về giữ Kinh Đông ngõ hầu mới có cơ cứu vãn. "Xin sớm dời đô ra Thăng Long, cố kết nhân tâm, dự bị thi hành phép tắc".
 
Khi Nguyễn Ánh đánh chiếm Phú Xuân, Nguyễn Thiếp bị mắc kẹt lại đó. Nguyễn Ánh triệu ông đến hỏi: "Nghe người làm thày Tây Sơn, sao lại để cho ta ra đây được?". Ông trả lời: "Có 8 điều trong sách Trung dung. Người giỏi thì làm được, người không giỏi thì không làm được". Nguyễn Ánh bèn tiếp đãi tử tế, rồi xuống chỉ cho ông về. Năm ấy Nguyễn Thiếp 79 tuổi. Hai năm sau ông không bệnh mà qua đời để lại cho bao thế hệ một tấm gương sáng chói, một nhân cách lớn của kẻ sĩ: yêu nước, thương dân, phú quý không màng, nghèo nàn không đổi, uy vũ không khuất.
 
Nguyễn Phan Thọ
Tạp chí VHNT số 330

Bạn đang đọc bài viết "La Sơn Phu Tử: Một nhân cách lớn" tại chuyên mục Di sản. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.