BV Thanh Chương

Huy Cận và mấy vần thơ quê

01/06/2019 14:45

Theo dõi trên

Quê hương Ân Phú, sông Ngàn Sâu, núi Mồng Gà luôn là đề tài bất tận trong thơ Huy Cận. Nó không chỉ “mang mang thiên cổ sầu” mà còn gợi nhớ, gợi thương về một miền sơn cước nặng nghĩa tình.

 
Nhà thơ Huy Cận (hàng đầu, bìa trái) và gia đình tác giả bài viết - Cù Huy Hùng . Ảnh Cù Huy Hùng/tư liệu

Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh chí sỹ lão thành cách mạng, nhà văn hóa, nhà thơ lớn Huy Cận, Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà Văn Việt Nam, UBND tỉnh Hà Tĩnh, UBND huyện Vũ Quang, UBND xã Ân Phú đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật ý nghĩa tưởng nhớ chàng thi sĩ Tràng Giang “mang mang thiên cổ sầu”.
 
Trong bối cảnh chung, tôi xin mạn phép nói đôi điều về “chất quê” trong thơ Huy Cận, như đứa trẻ chăn trâu rạo rực thấy hồn cốt núi sông từ nét bút tài hoa của một nhà thơ lớn đi chung đường làng.
 
Huy Cận sinh ra tại làng Ân Phú, huyện Hương Sơn, nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tĩnh, bền bờ sông Ngàn Sâu, dưới chân núi Mồng Gà, giữa trùng điệp đại ngàn Trường Sơn ngút gió. Chàng thi sỹ của Tràng Giang xa quê từ nhỏ, nhưng xúc cảm quê hương, hàng cây, ngon cỏ, bờ lau của mảnh đất Ân Phú cứ tự nhiên đi vào thơ ông như máu thịt.
 
 
Một góc sông Ngàn Sâu. Ảnh Cù Huy Hùng.
 
Từ cái “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” của Tràng Giang, ta đã thấy Huy Cận luôn đau đáu nghĩ về quê hương, về dòng Ngàn Sâu mềm ngọt. Người ta bảo Tràng Giang được sông Hồng gợi tứ. Đúng thế, nhưng phải là người Ân Phú, phải là người từng đứng bên bờ Ngàn Sâu giữa mùa nước lũ cuồn quộn mới cảm, mới hiểu được sâu sắc nhất nỗi niềm Huy Cận. Bởi vậy, không chỉ riêng tôi mà tất cả người Ân Phú khác đều xem Tràng Giang là thi phẩm Huy Cận viết cho xóm làng mình.
 
“Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
 
Con thuyền xuôi mái nước song song
 
Thuyền về nước lại sầu trăm ngã
 
Củi một cành khô lạc mấy dòng.

Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
 
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều.
 
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
 
Sông dài trời rộng bến cô liêu”.
 
Há chẳng phải đó là cái cảnh trùng điệp của dòng Ngàn Sâu trong cơn nước lũ mùa tháng 7, tháng 8 âm lịch hay sao? Tôi mường tượng, Huy Cận và chính tôi nữa đang đứng bên bờ Bại Giang (bến quê nơi Huy Cận sinh ra) trầm mặc đưa tầm mắt phóng về vùng Đức Lạc, Đức Đồng (huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh) phía típ tắp. Lũ lên, nước lớn, sông Ngàn Sâu đục ngầu màu phù sa. Nước băng hết nhà cửa, ruộng vườn, chỉ còn chới với những gò đất cao, nơi có ngọn cỏ lau đìu hiu trong gió. Buổi “chợ chiều” ở đây chính là phiên Chợ Nướt nằm bên kia sông, mùa nước lớn cách trở, người Ân Phú chẳng thể qua sông họp chợ nên mới “cô liêu” đến vậy.
 
Những khổ thơ tiếp của Tràng Giang cứ thế gắn chặt lấy hồn cốt Ngàn Sâu không tách rời. Đến hai câu thơ cuối Huy Cận đã nói thẳng ra:
 
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
 
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”.
 
 
Nhà thơ Huy Cận và nhà thơ Xuân Diệu. Ảnh Cù Huy Hùng/Tư liệu
 
Huy Cận nhớ Ngàn Sâu, nhớ Mồng Gà, nhớ bãng lãng chiều Ân Phú giữa cơn réo rắt của tiếng gió Ngàn Hống dạt về. Tôi từng hỏi Tiến sĩ Triết học, Mỹ học Cù Huy Chử (em trai ruột, người em gắn bó nhất với đời thơ Huy Cận) về mạch nguồn Tràng Giang. Cụ nói với hàm ý đó chính là Ngàn Sâu mà không thể khác được. Tất nhiên, chúng tôi không phủ nhận vai trò của Sông Hồng đã góp phần dựng nên “tòa tháp” Tràng Giang nhưng là người Ân Phú, chúng tôi cảm và hiểu vị thế của Ngàn Sâu lớn hơn. Tôi tin nếu không có một dòng Ngàn Sâu thê lương mùa bão nổi sẽ không có kiệt tác Tràng Giang lưu truyền hôm nay.
 
 
Tượng Huy Cận tại nhà thờ họ Cù Huy cánh Tiểu Tôn xã Ân Phú. Ảnh: Cù Huy Hùng.
 
“Chất quê” trong thơ Huy Cận ngoài Tràng Giang còn nhiều lắm. Trong bài thơ Ngậm Ngùi khóc thương người em gái xấu số nhà thi sĩ âu sầu:
 
“Nắng chia nửa bãi chiều rồi
 
Vườn hoang trinh nữ xếp đôi lá sầu.
 
Sợi buồn con nhện giăng mau
 
Em ơi hãy ngủ… anh hầu quạt đây”.
 
Một lần nữa, bến Bại Giang, đóa trinh nữ (người Ân Phú gọi là hoa thẹn) của đường làng Ân Phú lại được Huy Cận lấy làm mạch nguồn cho thơ. Điệu thơ ảo não, cay sồng.
 
Lần khác, Huy Cận rảo bước trên đường quê:
 
“Đường trong làng: Hoa dại với mùi rơm
 
Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm
 
Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng”.
 
Nếu không là người quê, không sinh ra cùng rơm rạ làm sao Huy Cận nghe ra cái mùi ngai ngái, gắt nồng của “rơm rạ” là “đường thơm”. Cội nguồn mấy vần thơ trên là bởi, vào vụ gắt tháng 5, trời miền Trung nắng đổ lửa, người Ân Phú đem phần rơm đã “trục” hết lúa (“trục lúa”- phương ngữ chỉ hoạt động ngày xưa dùng trâu, bò kéo theo cục đá lăn thật lớn kéo qua kéo lại trên lúa chất giữa sân cho ra hạt) phơi đầy đường. Mùi rạ ẩm ướt tan loãng giữa tiết trời nắng gắt cộng hưởng với mùi hoa dại ven đường tạo nên thứ hương thơm vô cùng đặc biệt.
 
Trên đường về quê, Huy Cận ngân nga:
 
“Đường Về Ân Phú quê cha
 
Sông La uốn khúc, Mồng Ga núi gần.
 
Đường về quê mẹ quen chân
 
Tam soa bến cũ mấy lần đò xuôi.
 
….
 
Một đời mòn gót nghìn đường
 
Bước về đầu xóm rưng rưng lệ nhòa”.
 
Phải nhớ quê, yêu quê lắm, Huy Cận mới gọi được cảm xúc “bước về đâu xóm rưng rưng lệ nhòa”. Đó là xúc cảm mừng rỡ, nghẹn ngào của đứa con ngoan lâu ngày đặt chân lên đất mẹ.
 
Trong đời mỗi con người có nơi nào đẹp hơn, thân thiết, gần gũi hơn quê hương. Bởi thế về quê, được ngủ lại trên vườn cũ, nhà xưa Huy Cận rạo rực:
 
“Đầu năm gió mát tựa hè
Nứt bung hoa gạo bốn bề trăng xuân
Sông là người đẹp khoả thân
Núi xanh mơn mởn bước gần bước xa
Lá ngôi lá mía rì rà
Áo đêm xuân khéo mượt mà dải tơ”.
 
Hoa gạo nở tháng ba, trăng tháng ba mỏng tang như lá lúa. Là người làng nên tôi biết ngôi nhà nhỏ của cha mẹ Huy Cận ngày xưa nằm lẫn khuất giữa nhiều tán gạo cổ thụ, cách đó mấy chục bước chân là bến Bại Giang, cũng cách đó mấy chục bước chân ở hướng ngược lại là cánh Đồng Biền, mùa tháng ba đúng thật rồi là mùa lá ngô, lá mía rì rào. Ngọn núi xanh bước gần bước xa chính là núi Mồng Gà thân thuộc. Ở Ân Phú “vẽ tranh bằng thơ” tài hoa đến vậy ngoài Huy Cận ra chưa ai làm được.
 
Về quê, Huy Cận không chỉ nghe được tiếng rì rào của lá ngô, lá mía, nhà thi sỹ còn nghe cả tiếng đất mẹ vỗ về:
 
“Tôi sinh ra ở miền sơn cước
 
Có núi làm xương cốt tháng ngày.
 
Đất bãi tơi làm da thịt mát
 
Gió sông như những mảng hồn bay”.
 
Thơ Huy Cận viết về sông núi, ruộng vườn nhưng cũng không thể thiếu được hình bóng người quê sâu nặng, nghĩa tình. Với dân Ân Phú, Huy Cận là tượng đài, ngược lại với Huy Cận, người quê như ruột thịt:
 
“Quen tên nhưng chửa biết người
Các em xúm xít nô cười hỏi han.
Cụ già mời bát lạc rang
Lâu năm gặp mặt bàn sang truyện Kiều
Ra về sau núi trăng treo.
Ai còn buộc đó chiều diều tuổi thơ…”.
 
Trong cuộc đời bận bịu, Huy Cận ít có dịp được về thăm quê nhưng hình bóng quê nhà luôn hiện hữu nơi tâm khảm.
 
Đến hôm nay, khi Huy Cận về nằm lại giữa sườn núi Mồng Gà, gối đầu nhìn xuống dòng Ngàn Sâu thì những câu ví ông viết về tình quê Xứ Nghệ vẫn mãi được ngân nga:
 
“Ai đi vô nơi đây
Xin dừng chân xứ Nghệ
Ai đi ra nơi này 
Xin dừng chân xứ Nghệ
 
Nghe câu vè ví dặm 
Càng lắng lại càng sâu
Như sông La chảy chậm
Đọng bao thuở vui sầu”.
 
Nhớ Huy Cận, nhớ một nhà thơ lớn không chỉ “mang mang thiên cổ sầu” mà còn luôn nặng nợ với quê hương.
 
Trong bài viết này, tôi không có ý bình thơ Huy Cận, làm điều đó thật ngoài khả năng. Như đã nói, tôi chỉ là đứa trẻ nhà quê đọc thơ Huy Cận thấy tuổi thơ mình đang rong ruổi giữa đường làng mà mạo muội viết thành lời.
 
Cù Huy Hùng

Bạn đang đọc bài viết "Huy Cận và mấy vần thơ quê" tại chuyên mục Văn hóa - Văn nghệ. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.