Thiếu ‘nhạc trưởng’
Hiện nay cả nước có 5.096 làng nghề và làng có nghề trong đó có 1.748 làng nghề đã được công nhận, trên 400 làng nghề truyền thống với hơn 53 nhóm nghề trong đó rất nhiều làng nghề có lịch sử phát triển hàng trăm, hàng nghìn năm như tơ lụa Vạn Phúc, đồng Ngũ Xã, gốm Chu Đậu...
Từ cách đây 10-15 năm, định hướng phát triển du lịch làng nghề đã được đặt ra như là một hướng đi của làng nghề Việt Nam. Ví dụ điển hình là từ khi chưa sáp nhập vào Hà Nội (trước năm 2008), Hà Tây là tỉnh có nhiều làng nghề nhất, du lịch gắn với làng nghề đã trở thành hoạt động thường xuyên tại những kỳ hội chợ, nhiều làng nghề đã có cơ hội ký hợp đồng xuất khẩu tại chỗ, mang lại giá trị hàng tỷ đồng mỗi năm…
Dù tiềm năng lớn và được định hướng từ rất sớm, nhưng theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, hoạt động du lịch làng nghề đến nay gần như vẫn phát triển “giậm chân tại chỗ”, phần lớn mang tính tự phát, hiệu quả chưa cao.
Ông Nguyễn Vi Khải, Phó Chủ tịch Hội đồng Tư vấn Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho rằng, yếu kém lớn nhất của du lịch làng nghề là thiếu chiến lược lâu dài. Nguồn nhân lực chuyên nghiệp cho du lịch tại các làng nghề còn thiếu và yếu, hầu như không được chú ý từ các cấp, bản thân làng nghề chưa có kỹ năng khai thác giá trị du lịch làng nghề, sản phẩm làng nghề tuy nhiều, phong phú nhưng sức cạnh tranh kém, ít sản phẩm có thương hiệu mang tầm quốc gia và quốc tế.
Theo ông Khải, nhiều địa phương chưa có chủ trương, cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển du lịch làng nghề, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ không đảm bảo cho phát triển du lịch. Ở nhiều làng nghề nổi tiếng như Đa Sỹ, Phú Vinh, Sơn Đồng, đường đi vào xuống cấp trầm trọng, đường vào làng vẫn chưa hoàn thiện.
Thực tế cho thấy, môi trường nhiều làng nghề bị ô nhiễm nặng, hệ thống thoát nước xả và xử lý chất thải rất kém, chất thải được đổ quanh ngay nơi sinh hoạt cộng đồng. Rất ít nơi có hệ thống bể lọc và áp dụng khoa học kỹ thuật theo đúng quy trình. Nhiều nơi cho chảy ra sông suối.
Thừa nhận vấn đề này, ông Lưu Duy Dần, Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam cho rằng, chính bởi còn quá nhiều hạn chế như vậy nên dù có tới hơn 5.000 làng nghề, trong đó có 400 làng nghề truyền thống gồm 53 nhóm nghề làm ra khoàng 200 loại sản phẩm thủ công khác nhau, trong đó nhiều sản phẩm nghề có lịch sử phát triển hàng trăm năm, thế nhưng sản phẩm du lịch làng nghề của Việt Nam vẫn chưa tự mình làm nên thương hiệu. Ví dụ, như gốm Bát Tràng, gỗ Đồng Kỵ, sơn mài hạ Thái... đã "ăn nên làm ra" nhờ xuất khẩu các đồ mỹ nghệ nhưng việc "xuất khẩu tại chỗ" cho khách du lịch lại không được lưu tâm.
Nhìn ra nước bạn
Để phát triển du lịch làng nghề, Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm các nước trong khu vực, đặc biệt là Thái Lan. Thái Lan có khoảng 50.000 làng nghề thủ công. Từ năm 2001, Chính phủ Thái Lan đã thực hiện dự án OTOP (One tampon, one product: mỗi làng nghề một sản phẩm). Chính phủ hỗ trợ kết nối địa phương với toàn cầu, thông qua việc hỗ trợ tiêu chuẩn hóa sản phẩm, hoàn tất đóng gói, tiếp thị, tổ chức kênh phân phối ở nước ngoài.
Cụ thể, Chính phủ chỉ thị cho các trường đại học mở các phòng vi tính tạo phần mềm thiết kế các sản phẩm OTOP đồng thời lập ra các trang thông tin nhằm giúp khách hàng nước ngoài có thể đặt mua hàng qua mạng. Chính phủ cũng giúp tổ chức các tour du lịch tới các làng nghề để du khách có thể tận mắt thấy được các sản phẩm OTOP được sản xuất như thế nào. Cho đến thời điểm hiện tại, ở Thái Lan có khoảng 36.000 mô hình OTOP, mỗi mô hình tập hợp từ 30 đến 3.000 thành viên tham gia. Việc quy hoạch, tổ chức lại các làng nghề truyền thống ở Thái Lan đã không chỉ góp phần bảo tồn và nâng cao kỹ năng tay nghề nghệ nhân, tạo công ăn việc làm ở nông thôn mà còn tạo ra các sản phẩm du lịch.
Phong trào “mỗi làng một sản phẩm” ở tỉnh Oita của Nhật Bản đã thực sự thu hút được quan tâm, học hỏi và phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia.
Theo TS Tôn Gia Hóa, Phó Chủ tịch Hiệp hội Làng nghề Việt Nam, để du lịch làng nghề phát triển, cần sự vào cuộc của nhiều bên. Các làng nghề cần có những phòng trưng bày hoặc những bảo tàng nhỏ của làng xã, giới thiệu về sản phẩm và quá trình hình thành, phát triển của cộng đồng, xuất xứ của sản phẩm và sự thay đổi mẫu mã qua các giai đoạn, những câu chuyện xung quanh những sản phẩm, ví dụ như bảo tàng nghề gốm cổ ở xã Kim Lan, Bảo tàng gốm tư nhân ở Bát Tràng, Hà Nội....
Về phía các hiệp hội, hội cần giới thiệu, quảng bá những mô hình phát triển du lịch làng nghề có hiệu quả, tổ chức những hoạt động giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và phát hiện tiềm năng phát triển du lịch tại mỗi làng nghề.. “Bên cạnh đó, Nhà nước cần đầu tư cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch, bởi hệ thống giao thông liên xã, huyện, tỉnh là những công việc ngoài tầm với của cộng đồng các làng nghề, nhưng lại có tính quyết định cho việc phát triển du lịch làng nghề. Ngoài ra, để bảo vệ môi trường cần có chính sách hạn chế những nghề gây ô nhiễm tại các làng nghề", TS Tôn Gia Hóa nhận định.
Theo ông Nguyễn Vi Khải, các làng nghề phải được quy hoạch, xây dựng thành Chiến lược phát triển du lịch làng nghề trong điều kiện hội nhập. Trước hết, từ những điển hình tốt trong du lịch làng nghề vừa qua, cần có tổng kết, đánh giá… Trên cơ sở đó, từng địa phương có quy hoạch chi tiết du lịch làng nghề theo cụm dân cư và làng nghề cụ thể, tiến tới sơ đồ hóa các tour du lịch làng nghề, lồng ghép với tham quan di sản, lịch sử, văn hóa tâm linh…
“Phát triển du lịch làng nghề là cần thiết, nhưng hiện trạng đang là bức tranh lắp ghép rời rạc, cần có một đầu mối cấp Bộ khâu nối, chỉ đạo điều phối. Đây là một liên ngành kinh tế, văn hóa, du lịch và các đoàn thể, riêng Bộ NN&PTNT hoặc Tổng cục Du lịch, hoặc Hiệp hội Làng nghề Việt Nam không thể làm được”- ông Khải nhận định.
(Theo Báo Tổ Quốc)