
Đó là những câu thơ nổi tiếng trong bài thơ "Cây hai ngàn lá" của nhà thơ Pờ Sảo Mìn viết về nét đẹp và khát vọng sống của dân tộc mình: người Pa Dí. Ý thức dân tộc của người Pa Dí thể hiện rất rõ ngay trong trang phục của người phụ nữ với những vẻ đẹp độc đáo, riêng có không thể lẫn với bất cứ dân tộc nào trong ngôi nhà chung 54 dân tộc trên dải đất hình chữ S Việt Nam.
Dân tộc Pa Dí có trên 2.000 nhân khẩu, với nhiều tên gọi khác nhau như: Pa Dí, Tày đen; người Nùng gọi người Pa Dí là "Phù Táng", "Phù Tay", "Tẳng", "Tày đăm"… Người Pa Dí sống tập trung ở các xã Tung Chung Phố, Lùng Vai (Mường Khương, Lào Cai). Tương truyền, xa xưa người Pa Dí sinh ra cuộc sống khó khăn, vất vả. Vì không muốn sống xa con cháu, nên tất cả gia đình, họ hàng cùng chung sống trong một mái nhà lớn. Sau này, khi con cháu quá đông, ăn ở chật chội, phải cho con cái ra ở riêng. Để thể hiện ý thức nhớ về cội nguồn, dòng tộc, người Pa Dí lấy hình tượng mái nhà sáng tạo ra chiếc khăn (mũ) truyền thống của dân tộc mình. Khăn của phụ nữ Pa Dí được làm khá cầu kỳ từ nguyên liệu vải chàm tự dệt. Để tạo cho mũ có độ cứng, màu sắc bóng đẹp, người Pa Dí sử dụng kỹ thuật hồ vải, thông qua các loại nhựa cây rừng, tạo cho vải có độ cứng, bền, sau đó ghép vải thành hình mái nhà. Bên dưới phần khăn hình mái nhà còn có một chiếc khăn dùng để quấn đầu, phía trước khăn ôm lấy trán là mảnh vải được đính các hạt bạc trắng hình quả núi, phía sau khăn là những khuôn bạc hình chữ nhật đính vào nhau tạo thành hình cây cối, chim muông, khi đội khăn làm nổi bật khuôn mặt người thiếu nữ. Trước khi đội khăn, người phụ nữ búi tóc cao lên đỉnh đầu cùng một khuôn gỗ nhỏ có cuốn vải, sau đó đội phần trên của khăn lên. Phần dưới mũ được quấn sát trán để cho tóc và phần trên của khăn thêm chặt, khăn không bị xô lệch. Đây là nét trang trí đầu tóc độc đáo nhất của phụ nữ Pa Dí.
Với chất liệu vải tự dệt, màu chủ đạo là xanh chàm, điểm màu xanh lá mạ và màu đen, áo phụ nữ Pa Dí may ngắn kiểu xẻ nách, cúc cài bên phải, thân áo ôm sát vòng eo, điểm nổi bật là mảng trang trí hoa văn bằng những chiếc cúc bạc nhỏ xíu đính liền nhau tạo thành đường chéo từ cổ áo xuống ngang hông. Cổ áo và cổ tay áo đều được đính những hạt bạc tượng trưng cho hạt ngô, hạt thóc sát vào nhau theo hình tam giác hay hình cây thông.