
Già làng Krajan Plin chơi kèn bầu sáu ống (Mbuốt)
Nối kết thế giới siêu nhiên
Am hiểu về văn hóa K’ho có lẽ không ai qua khỏi già làng Krajan Plin ở buôn Đang Ja, thị trấn Lạc Dương, Lâm Đồng. Không chỉ là người bản địa, già còn là nhà sưu tầm và nghiên cứu văn hóa Tây Nguyên.
Già Krajan Plin cho biết, nhạc cụ truyền thống của người K’ho có khoảng 10 loại cơ bản. Trong đó tập trung nhiều nhất vẫn là bộ gõ (đàn đá, trống, cồng chiêng) và bộ hơi (kèn bầu sáu ống, kèn bầu một ống, sáo, đàn môi). Riêng bộ dây có số lượng khá khiêm tốn (đàn tre).
Cồng chiêng của người K’ho thường gồm hai bộ: Chiêng bằng gồm 6 chiếc (tên gọi từng chiếc từ lớn tới nhỏ là Chiêng Me, N’hoài, Ndơn, Ndòl, Nthơ, Nthit) và bộ chiêng núm gồm 3 chiếc. Chất liệu tạo nên loại nhạc cụ này chủ yếu là đồng. Đường kính lớn nhất có thể lên đến hơn 60cm, nhỏ nhất khoảng 20cm. Mỗi chiếc là một cao độ, có thang âm riêng. Tiếng chiêng được người bản địa xem như hơi thở, giọng nói, tiếng khóc của con người. Quãng chiêng của người K’ho thường hẹp nên người nghe cảm thấy âm thanh của nó không bay bổng, bù lại, tính phức điệu lại rất đa dạng.
Cồng chiêng được sử dụng trong việc cúng tế thần linh và các dịp sinh hoạt cộng đồng như lễ hội, làm nhà mới, cúng lúa…
Người ta coi chiêng là cầu nối giữa con người với thần linh vì nếu muốn nói chuyện hoặc cầu xin thần linh ban cho ân huệ gì đều phải cúng chiêng, tấu chiêng.
Khi cúng, người ta sẽ đọc một bài văn tế rất dài nêu nguồn gốc, xuất xứ của chiêng, ai đúc, đúc bằng chất liệu gì, đổi mất bao nhiêu con trâu… Trong thời kỳ kinh tế thị trường, cũng như nhiều dân tộc Tây Nguyên khác, không gian sống dành cho cồng chiêng K’ho đang dần mất đi khi rừng không còn, người dân bỏ dần các nghi thức tế lễ... Thay vào đó, chiêng trở thành của quý trong các bộ sưu tập tư nhân hoặc dùng để biểu diễn phục vụ du lịch.
Nằm trong số nhạc cụ được xem là thiêng liêng, nối kết con người với thế giới siêu nhiên còn có tơrlet (tù và sừng trâu nhỏ), Pơ nung ngkae (tù và sừng trâu lớn) dùng trong dịp kêu gọi, tập trung mọi người khi làng có sự kiện long trọng như đâm trâu tế thần.
Bộ gõ gồm trống da trâu (Sơgơr) và đàn đá (Goòng lú, gồm 6 hoặc 7 viên đá xếp theo thứ tự từ nhỏ đến lớn để tạo nên những thanh âm khác nhau) dùng trong những dịp lễ hội, cúng bái, săn bắt, hái lượm…

Một số loại sáo và kèn bầu của người K’ho
Âm vang của đại ngàn
Nếu muốn tìm nhạc cụ đại diện tiêu biểu nhất của dân tộc K’ho phải kể đến kèn bầu sáu ống (Mbuốt hay Rơkèl).
Cấu tạo của Mbuốt gồm một quả bầu khô rỗng ruột và 6 ống nứa rỗng có lỗ thoát hơi và độ dài ngắn khác nhau được gắn xuyên qua quả bầu, bố trí thành hai hàng (4 ống trên, 2 ống dưới). Các ống nứa kết dính với quả bầu bằng một loại sáp ong muỗi đặc biệt. Do đó, làm nên Mbuốt là cả kỳ công của nghệ nhân.
Già Krajan Plin có một người bạn nhạc sĩ quốc tịch Úc đến Lâm Đồng chỉ để tận mắt chứng kiến nhạc cụ độc đáo này. Ông ta háo hức ghi âm các bản nhạc được chơi bằng Mbuốt và giữ bản ghi âm cẩn thận. Bởi so với cồng chiêng thì nhạc cụ này dễ mai một hơn khi số người biết chơi loại nhạc cụ này, bây giờ đếm trên đầu ngón tay.
Kỹ thuật thổi Mbuốt rất khó vì chỉ với một nhạc cụ này, người chơi có thể thổi hết sáu điệu cồng chiêng. Khi chơi, người ta thổi vào cuốn bầu. Ngón cái, ngón trỏ, ngón giữa và ngón áp út của tay trái giữ lỗ thoát hơi của ống nứa hàng trên. Ngón trỏ và ngón giữa của tay phải giữ lỗ thoát hơi của 2 ống hàng dưới. Ống dài cho âm thấp và ống ngắn cho âm cao.
Mbuốt gắn liền với sử thi về nữ thần mặt trời của người K’ho
Chuyện kể rằng, thần linh có 12 người con ở trên trời và 12 người con ở dưới đất để phụ giúp ông tạo dựng trời đất. Khi thần linh ở lại mặt đất để trông coi việc tạo dựng thì trên trời, hai người con là nữ thần mặt trời và thần mặt trăng phải lòng nhau. 15 ngày trăng sáng chính là thời gian để hai thần quấn quýt và sinh ra 7 người con. Khi thần Ndu về trời biết chuyện, thần rất giận dữ. Ông đày thần mặt trăng và thần mặt trời xuống dưới trần làm người. Kiếp người ngắn ngủi, thần mặt trăng từ một chàng trai cường tráng nhanh chóng già nua và chết, linh hồn thần về trời. Và cũng từ đó, mỗi tháng đến kỳ trăng sáng, người ta nhìn lên cung trăng lại thấy một người đàn ông đang ngồi dưới gốc cây thổi Mbuốt. Họ bảo rằng thần mặt trăng đang ru nữ thần mặt trời, gửi bao niềm nhớ nhung vào trong tiếng kèn tha thiết.
Khác với cồng chiêng, trống, đàn đá dùng trong lễ hội hoặc nghi thức linh thiêng thì kèn bầu sáu ống được sử dụng nhiều trong sinh hoạt đời thường. Ngoài kèn bầu sáu ống, người K’ho còn có kèn bầu một ống (Bre). Kỹ thuật chơi Bre dễ hơn Mbuốt rất nhiều vì Bre chỉ sử dụng một ống nứa xuyên qua quả bầu khô, lại tiện dụng trong dịp gặp gỡ bạn bè nên rất được người dân ưa thích.
Sáo (Kơwao) có rất nhiều chủng loại với những ống tre, trúc có kính thức to nhỏ, dài ngắn và cách thổi khác nhau. Mỗi loại cho ra một thanh âm đặc biệt mô tả tiếng suối róc rách, tiếng gió vi vu hay tiếng cây xào xạc…
“Đối với người K’ho, sáo có hình dài nên nó tượng trưng cho sinh thực khí của người đàn ông. Do vậy, sáo là thứ nhạc cụ dành cho phụ nữ. Còn đàn môi (Gòch) là một đoạn kim loại được uốn cong và nhỏ dần về phía đầu, đoạn rãnh giữa được gắn một chiếc lam. Nhìn tổng thể, đàn môi có hình thù rất giống sinh thực khí của người đàn bà nên người dùng đàn môi phải là đàn ông” - già làng Krajan Plin cho hay.
Sáo và đàn môi là hai nhạc cụ bình dân rất phổ biến trong cộng đồng người K’ho vì nó gọn nhẹ, dễ bỏ túi và không đòi hỏi kỹ thuật của người chơi cao. Đặc biệt nó được thanh niên rất ưa thích vì nó là nhạc cụ dùng để tâm tình, thổ lộ tình cảm đôi lứa. Khi chàng trai để ý đến một cô gái, đêm đêm anh ta thường đến nhà cô gái đó, đợi cha mẹ cô ấy đi ngủ rồi đứng bên bức vách gần buồng cô gái nằm để chơi đàn môi. Dù người K’ho theo chế độ mẫu hệ, phụ nữ chủ động trong hôn nhân nhưng khả năng chơi đàn môi của chàng trai là một trong những tiêu chí để các cô gái bắt chồng. Đàn ông có quyền dùng đàn môi tán tỉnh người con gái mà mình để ý hoặc cô gái để ý đến mình, thuyết phục nàng “rước mình về dinh”. Tùy theo tâm trạng của chàng trai mà tiếng đàn môi tỉ tê, hân hoan hay buồn não từ đêm này qua đêm khác. Nếu cô gái phải lòng, cảm mến thì thổi sáo trả lời lại rồi cùng chàng trai tìm một chỗ thanh vắng để hò hẹn, tâm sự.
Riêng bộ dây, cộng đồng người K’ho có rất ít nhạc cụ. Tiêu biểu nhất vẫn là đàn tre. Đây cũng là một nhạc cụ gắn liền với cuộc sống đời thường của người nông dân K’ho những lúc lên nương, lên rẫy. Tiếng đàn xua đi bao mệt nhọc, giúp con người bày tỏ tâm trạng, giải khuây giữa đất trời.
Chất liệu tạo nên nhạc cụ truyền thống của người K’ho đều gắn liền với thiên nhiên như tre, nứa, sừng trâu, da trâu, gỗ, đá… Nó tái hiện cuộc sống thuở hồng hoang của người K’ho xưa, đầy kính trọng núi rừng như phân tích của già làng Krajan Plin: “Trong văn hóa đa thần của người dân tộc K’ho tất cả cỏ cây và muôn loài đều biết nói và có linh hồn. Khi thần sấm sét theo lệnh thần Ndu đấng sáng tạo đánh vào cây thông đôi thì vạn vật từ đó đều câm hết. Nhưng linh hồn của chúng vẫn còn, chúng biết đau, biết vui, biết buồn... như con người. Vì vậy, bà con rất có ý thức bảo vệ thiên nhiên. Nếu muốn làm gì với thiên nhiên, chẳng hạn như chặt cây lấy gỗ thì họ đều làm lễ cúng để cầu xin”. Do đó, tất cả những nhạc cụ trên khi độc tấu hay hòa tấu với nhau, chúng đều gợi về tiếng nói của đại ngàn hùng vĩ, của đồi nương trập trùng. Nó gắn liền với cuộc sống hòa quyện với thiên nhiên, gắn liền với tâm hồn chất phác, hiền lành như cái cây, ngọn cỏ của đồng bào dân tộc K’ho trên cao nguyên Lang Biang.