Di tích Quốc gia đặc biệt - Khu lưu niệm Phan Bội Châu

08/08/2021 17:11

Theo dõi trên

Nghệ An, vùng đất địa linh nhân kiệt, nơi đó ẩn giấu bao hoài niệm, nguồn cội, không chỉ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nam Đàn còn là quê hương của Sào Nam Tự, chí sỹ Phan Bội Châu. Người mà thân thế quang minh, cái tinh thần cao thượng, cái nghị lực bất di, bất khuất đã chứng tỏ ra trong việc làm của “ông già Bến Ngự”.

20211103-162029-1635931757-1666621204.jpg

Kỳ 1: Người thức tỉnh hồn dân tộc

“Theo Phan Bội Châu, chỉ có con đường vũ trang bạo động... Đây là con đường đúng đắn nhất. Tuy nhiên, ông thất bại là vì "không có lực lượng bên trong mà chỉ ỉ lại vào người ngoài thì thật là khó", "ỉ lại vào người thì không thể thành công được" (trích Niên biểu)... Những lời tự phê phán của ông thật sự nghiêm khắc mà cũng vô cùng chính xác!... Mặc dù không giành được thắng lợi, nhưng đường lối bạo động cách mạng đó đã phát động mạnh mẽ tinh thần yêu nước, giải phóng dân tộc của nhân dân Việt. Đó là cống hiến lớn lao của Phan Bội Châu và các tổ chức của ông”.

Phan Bội Châu tên húy là Phan Văn San, hiệu Sào Nam, sinh ngày 26/12/1867 trong một gia đình hàn nho, thuộc làng Sa Nam, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An; là nhà văn hóa lớn và là người tiêu biểu cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX. 

Trong đêm trường nô lệ đen tối, trên hành trình đi tìm đường cứu nước với gần ba mươi năm hoạt động gian lao vất vả, bước chân Phan Bội Châu đã trải qua nhiều địa danh: Khi tỉnh Quảng, lúc Hoan Đồn, khi Tuyên Quang, Đông Kinh, Thần Hộ, Thượng Hải, Quế Việt, khi ở Nhật Bản, khi ở Trung Quốc, lúc lại về Thái Lan… Các phong trào yêu nước do Cụ Phan phát động như Duy Tân hội, Đông Du, Việt Nam Quang phục hội, Việt Nam Quốc dân đảng... luôn được các tầng lớp nhân dân tham gia hưởng ứng. Đặc biệt là tầng lớp thanh niên, họ xem Phan Bội Châu như thần tượng, lý tưởng để phấn đấu vì sự nghiệp giải phóng dân tộc.

Ngày 30/6/1925, Phan Bội Châu bị Thực dân Pháp bắt cóc ở Thượng Hải (Trung Quốc) giải về nước, đem xử ở tòa Đề hình Hà Nội, rồi đưa về an trí ở Huế. Sáng ngày 29/10/1940 (tức ngày 29 tháng Chín năm Canh Thìn), Cụ trút hơi thở cuối cùng tại căn nhà tranh ở dốc Bến Ngự (Huế).

Năm lên chín tuổi, ông đã có ý thức hưởng ứng phong trào chống Pháp của Trần Tấn, Đặng Như Mai. Mười bảy tuổi, ông thảo bài hịch Bình Tây thu Bắc; 19 tuổi tổ chức một đội thí sinh quân gồm 60 người ứng nghĩa Cần Vương.

Năm 1900, ông đỗ Giải nguyên và chính thức dấn thân vào con đường cứu nước. Năm 1904, ông lập ra Hội Duy Tân (1904), chủ trương bạo động và nhờ ngoại viện để khôi phục nền độc lập. Đầu năm 1905, ông sang Nhật rồi trở về tổ chức phong trào Đông Du (1905 - 1908), tập hợp khoảng 200 thanh niên sang Nhật học tập chính trị, khoa học, quân sự.

Khoảng tháng 3/1909, Chính phủ Nhật trục xuất ông và các học sinh Đông Du. Ông về ẩn náu tạm thời trên đất Trung Quốc ít lâu rồi sang Xiêm hoạt động. Cách mạng Tân Hợi thành công (1911), ông trở lại Trung Quốc và thành lập Việt Nam quang phục hội với tôn chỉ khôi phục nước Việt Nam, thành lập nước "Cộng hòa dân quốc Việt Nam".

Ngày 24/12/1913, ông bị thực dân Pháp nhờ bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam; năm 1917, ra tù, viết báo để tuyên truyền chống Pháp và tiếp tục tìm đường cứu nước; giữa năm 1924, cải tổ Việt Nam quang phục hội thành Việt Nam quốc dân đảng. Ngày 30/6/1925, Phan Bội Châu bị thực dân Pháp bắt cóc ở Thượng Hải đem về nước, đưa ra xử ở Tòa đề hình Hà Nội. Trước phong trào phản đối rầm rộ khắp cả nước, thực dân Pháp phải tuyên bố tha bổng nhưng giam lỏng ông ở Huế. Mặc dù trong cảnh “cá chậu chim lồng” nhưng ông vẫn làm thơ văn để tố cáo chính quyền thực dân phong kiến và giác ngộ tinh thần yêu ước của đồng bào.

Vào những năm đầu thế kỷ XX, làn sóng duy tân từ Nhật Bản và tinh thần Mậu Tuất Chính biến (1898) ở Trung Quốc dội sang nước ta qua những "tân thư" và "tân văn" của Lương Khải Siêu cùng các nhà cải lương Trung Quốc khác. Nhờ đó, tầm nhìn của giới sĩ phu được mở ra rộng lớn hơn nhiều, giúp họ ý thức sâu sắc hơn về hiểm họa mất nước. "Tôi vì xem những pho sách ấy mới hiểu qua được tình hình cạnh tranh ở trong hoàn hải, thảm trạng đất nước diệt chủng lại càng kích thích trong đầu sâu sắc hơn" (Tự phán - PBC).

Có thể nói Phan Bội Châu là người đã đóng vai trò quan trọng nhất trong việc thức tỉnh hồn nước. Ông đã sử dụng thơ văn như một vũ khí để giác ngộ đồng bào. Thơ văn ông khơi dậy nỗi nhục mất nước và tình cảm, tinh thần yêu nước của mọi người.

Còn tiếp…

Nguyễn Diệu
Bạn đang đọc bài viết "Di tích Quốc gia đặc biệt - Khu lưu niệm Phan Bội Châu" tại chuyên mục Di sản. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.