
Cái tên Kim Chung được cô Năm Sa Đéc “bật mí” trong sách: “Do cha mẹ tôi thích hát bội nên khi sanh tôi ra, đặt cho tôi tên Kim Chung là để nhắc nhở đến tên tuổi một cô đào hát bội nổi danh ở Mỹ Tho là cô Năm Chung. Mới sáu, bảy tuổi, tôi đã mê coi hát bội. Anh Tư tôi, vì quá thương em, với lại ảnh cũng mê coi hát, nên đêm nào cũng cõng tôi đi coi hát “đáo lệ” ở đình làng. Đến khi ba tôi lập gánh, tôi năn nỉ ba má cho học hát... để làm đào. Má tôi có lẽ bị ảnh hưởng nặng nề cái câu “con theo hát bội, mẹ liều con hư” nên bà phản đối quyết liệt. Riêng ba tôi, chắc có “tâm hồn nghệ sĩ” nên ông nói nhẹ nhàng hơn “để tao tính coi...”.
Nhờ lợi thế là... con gái của ông bầu Thiện Tiền Ban nên tới đâu cô Năm cũng được ưu ái. Tác giả Thiện Mộc Lan thông tin: “Nhờ trí thông minh và ý chí cầu tiến nên khi đến tuổi thiếu nữ, cô đã sớm thành công trong một số vai đào văn, võ được đánh giá là “thanh sắc lưỡng toàn”. Sau khi gánh hát nhà tan rã, cô Năm Sa Đéc sang Cần Thơ đi hát cho gánh Bầu Bòn. Gặp lúc khó khăn, Bầu Bòn chuyển thể thành hát bội pha cải lương, bà phải chiều theo ngọn gió mới, học thêm bài bản ca hát cho hợp với thị hiếu quần chúng bình dân”.
Tác giả tập sách cho biết: “Từ khi bước vào nghiệp cầm ca, những năm dài trên sân khấu hát bội, cô Năm có nghệ danh là Năm Nhỏ. Vì “đụng hàng” với một cô đào hát bội khác nổi tiếng thuộc lớp đàn chị là cô Năm Nhỏ (tên thật Huỳnh Thị Tân, sanh năm 1895 tại Cần Thơ), ngôi sao sáng trên sân khấu hát bội của Cô Ba Ngoạn thời bấy giờ, nên cô Năm chọn nghệ danh mới là Năm Sa Đéc, gắn liền với quê hương”.

Cô Năm còn có thêm cuộc tình với học giả nổi tiếng là Vương Hồng Sển. Đó là năm 1947, khi ông ôm mối hờn riêng, bỏ Sóc Trăng lên Sài Gòn, trong bụng nuôi mộng trả thù, nhưng thù chưa trả được thì “đụng” cô Năm Sa Đéc. Người bị mất vợ, người bị chồng bỏ, hai trái tim đang tan vỡ lắp ghép vào nhau. Ông Sển kể: “Năm ở một chòi lá, mướn mỗi tháng 3 đồng; tôi thì không nhà lại thêm tánh quân tử Tàu, nên cũng chẳng có gì... Rồi Năm sanh một trai, cha già con muộn, tôi mừng quá. Hai nỗi khổ gặp nhau. Tôi làm khai sanh và giao kết với nhau: còn thương thì ở, hết thương thì đường ai nấy đi, không có gì bận bịu, cũng không nhắc đến việc gì khác ngoài cái nghĩa tào khang. Tháng 6.1948, có bố ráp tại xóm Cù Lao, lính Tây bắt cả xóm ra ngồi ngoài sân, trong lòng sợ có người lấy mất chiếc xe đạp Peugeot của bác sĩ Sang cho mượn làm chân. Cũng may, lính Tây cho lãnh xe lại, không lấy. Vậy là tiền hung hậu kiết, bởi nhờ nạn bố ráp này, mình xin được Sở Canh nông cho phép cất một căn nhà lá tạm, ở đến năm 1953 mới dọn đi. Nơi đây là hạnh phúc nhứt trong đời tôi. Vừa còn trẻ, thêm sanh đứa con trai duy nhứt, đặt tên là Vương Hồng Bảo”.