1. Tính tất yếu khách quan của hội nhập quốc tế về văn hóa
Các nhà nghiên cứu có nhiều cách tiếp cận để định nghĩa về hội nhập quốc tế. Tôi đồng tình với định nghĩa sau: “Hội nhập quốc tế là quá trình liên kết, gắn kết giữa các quốc gia/vùng lãnh thổ với nhau thông qua việc tham gia các tổ chức, thiết chế, cơ chế, hoạt động hợp tác quốc tế vì mục tiêu phát triển của bản thân mỗi quốc gia/vùng lãnh thổ đó và nhằm tạo thành sức mạnh tập thể giải quyết những vấn đề chung mà các bên cùng quan tâm. Hội nhập quốc tế theo đúng nghĩa đầy đủ là hội nhập trên tất cả lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội.
Về bản chất, hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế nhằm đạt được một mục tiêu hoặc lợi ích chung nào đó” [7].
Hội nhập quốc tế về văn hóa được hiểu là sự chủ động của một quốc gia liên kết, xây dựng các mối quan hệ văn hóa với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực để giao lưu, hợp tác thông qua các thể chế (cam kết, nghị định, công ước...) song phương và đa phương, tôn trọng, học hỏi lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại nhằm chia sẻ các giá trị văn hóa của nhau làm nền tảng cho các loại hình hội nhập quốc tế khác.
Các nhà lý luận Mácxít đưa ra luận điểm về tính dân tộc và tính quốc tế trong sự phát triển văn hóa của mỗi dân tộc. Không có một dân tộc nào mà văn hóa của mình lại phát triển cô lập với văn hóa dân tộc khác. Sự tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa các nền văn hóa của các dân tộc là quy luật của lịch sử văn hóa. Vấn đề đặt ra là văn hóa ở mỗi quốc gia chủ động giao lưu, hợp tác, hội nhập quốc tế về văn hóa như thế nào.
Cuối thế kỷ XX, nhiều nước trên thế giới gia tăng việc tận dụng và phát huy “sức mạnh mềm” của quốc gia trong chiến lược phát triển, hội nhập quốc tế, trở thành trào lưu phát triển trên thế giới. “Sức mạnh mềm” là một khái niệm do giáo sư người Mỹ là Joseph Samuel Nye đưa ra trong một cuốn sách xuất bản năm 1990. Sau đó, khái niệm này được sử dụng rộng rãi ở các nước. Sức mạnh mềm được thực hiện thông qua sự hấp dẫn và thuyết phục, không phải là áp đặt, cưỡng chế, nghĩa là việc gây ảnh hưởng để khiến người khác làm theo những thứ mình muốn. Sức mạnh mềm văn hóa là các giá trị văn hóa, con người, thể chế của quốc gia, tạo nên sự hấp dẫn, sức lan tỏa có khả năng ảnh hưởng, thu hút của một quốc gia này đối với quốc gia khác nhằm đạt được lợi ích thông qua các hoạt động văn hóa. Di sản văn hóa dân tộc ngày càng được coi trọng, là tài sản vô giá của mỗi quốc gia. Các quốc gia ngày càng đề cao việc bảo vệ và phát huy tính đặc thù, bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời với tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa của nhân loại trong quá trình toàn cầu hóa.
Thế giới đang diễn ra quá trình toàn cầu hóa trên mọi lĩnh vực, trong đó có toàn cầu hóa về văn hóa, mức độ tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày một gia tăng, thu hút các quốc gia tham gia vào các hoạt động do các tổ chức quốc tế và khu vực khởi xướng. Toàn cầu hóa tạo nhiều cơ hội nhưng cũng không ít thách thức, đòi hỏi mỗi quốc gia phải tiên liệu những vấn đề mới xuất hiện để tranh thủ cơ hội, hóa giải thách thức, tích cực, chủ động tham gia hội nhập quốc tế. Đây là xu hướng có tính tất yếu khách quan nhằm tranh thủ tối đa sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại cho lợi ích và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Từ chối hội nhập quốc tế đồng nghĩa với cản trở phát triển dẫn đến sự tụt hậu của quốc gia trong sự phát triển chung của nhân loại.
Trước năm 2013, trong các văn kiện của Đảng mới nói đến hội nhập kinh tế quốc tế, còn đối với văn hóa các văn kiện dùng cụm từ giao lưu, hợp tác văn hóa với nước ngoài. Đến khi Bộ Chính trị khóa XI ra Nghị quyết số 22-NQ/TW ngày 10/4/2013 về hội nhập quốc tế, đã đề cập đến việc hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực, nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Hội nhập kinh tế là trọng tâm, hội nhập trong các lĩnh vực khác phải tạo thuận lợi cho hội nhập kinh tế và góp phần tích cực vào phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng, bảo đảm an ninh quốc gia, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, thúc đẩy phát triển văn hóa, xã hội; hội nhập trong các lĩnh vực phải được thực hiện đồng bộ trong một chiến lược hội nhập quốc tế tổng thể với lộ trình, bước đi phù hợp với điều kiện thực tế và năng lực của đất nước” [6].
Quan điểm trên là cơ sở để năm 2014, Đảng ta ban hành Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước chính thức đưa ra nhiệm vụ chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phù hợp với xu hướng tất yếu, khách quan của thời đại.
2. Định hướng của Đảng chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
Thực hiện công cuộc đổi mới, để chuẩn bị cho hội nhập quốc tế về văn hóa, từ năm 2004, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, với tinh thần: “Xóa bỏ mặc cảm, định kiến, phân biệt đối xử do quá khứ hay thành phần giai cấp; xây dựng tinh thần cởi mở, tôn trọng, thông cảm, tin cậy lẫn nhau, cùng hướng tới tương lai. Mọi người Việt Nam, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, nguồn gốc xuất thân, địa vị xã hội, lý do ra nước ngoài, mong muốn góp phần thực hiện mục tiêu trên đều được tập hợp trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc” [4].
Định hướng chủ động hội nhập quốc tế về văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại được thể hiện rõ trong các văn kiện Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI, Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng gồm các nội dung cụ thể dưới đây:
Một là, Nghị quyết Trung ương 9 nêu tư tưởng chỉ đạo chung là “Chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, đưa các quan hệ quốc tế về văn hóa đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực; tiếp nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm phong phú thêm văn hóa dân tộc [1, tr.20]. Đại hội XIII chỉ rõ mục tiêu cần đạt được là “Xây dựng Việt Nam thành địa chỉ hấp dẫn về giao lưu văn hóa quốc tế” [2, tr.147]. Giao lưu, hợp tác văn hóa với các nước để học hỏi, tiếp nhận làm giàu văn hóa dân tộc trên tinh thần “Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam” [2, tr.147].
Hai là, chủ động hội nhập quốc tế về văn hoá cần phát huy mọi nguồn lực văn hóa để nâng tầm, vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, lấy nhân tố văn hóa của các tầng lớp nhân dân ở trong nước làm sức mạnh nội sinh quyết định chiều hướng phát triển kết hợp nhân tố văn hóa của Việt kiều ở ngoài nước, khuyến khích Việt kiều hội nhập, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI xác định nhiệm vụ: “Phát huy tài năng, tâm huyết của trí thức, văn nghệ sĩ người Việt Nam ở nước ngoài trong việc tham gia phát triển văn hóa của đất nước, trở thành cầu nối quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, con người Việt Nam” [1, tr.20].
Ba là, truyền bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài là để người nước ngoài hiểu đầy đủ về đất nước, con người Việt Nam, nhất là công cuộc đổi mới đất nước, “Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước [2, tr.101]. Hiện nay, chúng ta có trên 4 triệu Việt kiều sinh sống ở nước ngoài. Chủ trương của Đảng là bà con Việt kiều ở nước ngoài giữ gìn được truyền thống văn hóa của dân tộc, trọng tâm là tiếng nói và chữ viết. Càng nhiều Việt kiều biết tiếng Việt, càng nhiều người nước ngoài sinh sống và làm ăn tại Việt Nam biết tiếng Việt, đó là nguồn vốn quý giá và là điều kiện, cơ hội để họ tham gia vào việc quảng bá văn hóa Việt Nam ra thế giới. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đề ra nhiệm vụ: “Chú trọng truyền bá văn hóa Việt Nam, dạy tiếng Việt cho người Việt Nam ở nước ngoài và người nước ngoài ở Việt Nam. Xây dựng một số trung tâm văn hóa Việt Nam ở nước ngoài và trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài” [1, tr.20].
Bốn là, quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa, nước ta có nhiều cơ hội tranh thủ được nguồn lực của các nước, trong đó có Việt kiều yêu nước, luôn hướng về tổ quốc, tiếp nhận công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý, cách thức hoạt động sáng tạo... nhưng cũng phải đối diện với nhiều thách thức như truyền bá quan điểm sai trái, thù địch chống phá Đảng, Nhà nước; ảnh hưởng của lối sống thực dụng, đồi trụy, cá nhân cực đoan, tự do “vô chính phủ”; nguy cơ biến dạng, lai căng, mất bản sắc văn hóa dân tộc; tụt hậu công nghệ.... Những năm sau đổi mới, chúng ta đã kiên định phương chân “Đổi mới không đổi màu”, “Hòa nhập không hòa tan”. Việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc có ý nghĩa sống còn đối với nền văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Mặt khác phải chủ động tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân loại làm giàu có nền văn hóa dân tộc, đưa văn hóa dân tộc lên tầm cao mới hòa vào dòng chảy văn minh nhân loại. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI yêu cầu: “Chủ động đón nhận cơ hội phát triển, vượt qua các thách thức để giữ gìn, hoàn thiện bản sắc văn hóa dân tộc; hạn chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực, mặt trái của toàn cầu hóa về văn hóa” [1, tr.20]. Các thế lực thù địch chế độ xã hội chủ nghĩa tìm mọi thủ đoạn tác động nhằm chuyển hóa tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống con người Việt Nam. Văn hóa, con người Việt Nam có bị chuyển hóa theo ý đồ thâm độc của các thế lực thù địch chống phá chế độ ta hay không phụ thuộc vào bản lĩnh chính trị, khả năng “tự miễn dịch”, năng lực tự vệ của mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân. Do vậy, chúng ta phải tiên liệu trước những vấn đề nảy sinh trong quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa. Báo cáo chính trị Đại hội XIII chủ trương: “chủ động nâng cao sức đề kháng của các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là thanh, thiếu niên đối với các văn hóa phẩm ngoại lai độc hại” [2, tr.147].
Năm là, Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI nêu ra quan điểm: “Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân là chủ thể sáng tạo, đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng” [1, tr.14]. Hội nhập quốc tế về văn hóa chỉ có thể mang lại hiệu quả cao khi Nhà nước thực sự trở thành “Bà đỡ”, với tư cách là chủ thể đại diện cho nhân dân quản lý xã hội, phát triển văn hóa, trong đó có văn hóa đối ngoại. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật tạo cơ chế, chính sách và cung cấp, hỗ trợ nguồn lực vật chất, con người cho hoạt động văn hóa đối ngoại phát triển. Nghị quyết Trung ương 9 khóa XI đề xuất nhiệm vụ: “Xây dựng cơ chế, chính sách phát triển văn hóa đối ngoại; hỗ trợ quảng bá nghệ thuật quốc gia và xuất khẩu các sản phẩm văn hóa ra nước ngoài” [1, tr.20], từng bước đưa văn hóa Việt Nam đến với thế giới.
Những chủ trương, tư tưởng chỉ đạo nêu trên của Đảng là cơ sở pháp lý để Nhà nước chủ động ban hành các chính sách, pháp luật về giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế trên lĩnh vực văn hóa.
3. Đánh giá việc chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
3.1. Một số kết quả
Trung ương và địa phương đã chủ động mở rộng hợp tác văn hóa với các nước, thực hiện đa dạng các hình thức văn hóa đối ngoại, thu được kết quả nhất định cả bề rộng lẫn chiều sâu, song phương và đa phương, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trên thế giới.
Ngay sau khi Đảng có chủ trương chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, Thủ tướng Chính phủ đã ký một số văn bản quản lý quan trọng. Đó là: Quyết định số 1984/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án cung ứng dịch vụ phát thanh, truyền hình qua mạng Internet phục vụ người Việt Nam ở nước ngoài giai đoạn 2015 – 2020 (31/10/2014); Quyết định số 210/QĐ-TTg phê duyệt Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 (08/2/2015). Chiến lược văn hóa đối ngoại là một bản kế hoạch lớn đề ra quan điểm, mục tiêu, những nhiệm vụ trọng tâm cần phải làm với những đầu việc cụ thể. Chiến lược xác định 4 quan điểm chỉ đạo, trong đó có quan điểm: “Văn hóa đối ngoại là một bộ phận quan trọng đặc biệt của nền văn hóa quốc gia, thể hiện sức mạnh nội sinh của dân tộc, có vai trò tích cực trong việc nâng cao vị thế của đất nước, con người và văn hóa Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho công cuộc hội nhập quốc tế của đất nước” [3, tr.6].
Thực hiện nhiệm vụ nêu trong Nghị quyết Trung ương 9, năm 2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết đinh số 1755/QĐ-TTg Phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, với quan điểm: “Phát triển công nghiệp văn hóa gắn liền với việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế” [5].
Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định, chương trình giao lưu, hợp tác văn hóa với các nước trên nguyên tắc tin cậy, tăng cường hiểu biết văn hóa của nhau, tuân thủ pháp luật của mỗi nước, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, công nhận toàn vẹn chủ quyền lãnh thổ, bầu trời, biển đảo và chế độ chính trị xã hội. Thông qua các hiệp định, chương trình văn hóa, Việt Nam đã tổ chức Ngày văn hóa, Tuần văn hóa, Lễ hội văn hóa – du lịch Việt Nam… ở nhiều nước nhằm giới thiệu, quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời nhiều nước trên thế giới cũng đã chủ động tổ chức Ngày văn hóa, Tuần văn hóa của nước họ ở Việt Nam, nhằm tăng cường sự hiểu biết về văn hóa, đất nước, con người của nhau. Một số nước liên tục tổ chức sự kiện văn hóa thường niên ở Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Nga… Xuất hiện chức danh mới trên lĩnh vực văn hóa, là đại sứ văn hóa của mỗi nước. Những sứ giả này có vai trò kết nối, lan tỏa các giá trị văn hóa của mỗi quốc gia.
Việt Nam đã chủ động tổ chức các sinh hoạt văn hóa ở một số trung tâm văn hóa ở nước ngoài như Trung tâm văn hóa Việt Nam ở Pháp, Lào…, đồng thời Nhà nước cho phép nước ngoài mở trung tâm văn hóa ở Việt Nam như Trung tâm văn hóa Pháp, Viện Gớt (Đức), Viện Khổng Tử (Trung Quốc)…. Nhiều tổ chức sản xuất, kinh doanh văn hóa phẩm; tổ chức nghiên cứu văn hóa, hoạt động xã hội về văn hóa phi lợi nhuận của nước ngoài được đặt văn phòng đại diện ở Việt Nam.
Việt Nam chủ động tham gia là thành viên và tích cực thực thi các công ước quốc tế liên quan đến văn hóa, con người do Liên hiệp Quốc, Tổ chức Giáo dục, Khoa học, Văn hóa (UNESCO) của Liên hiệp quốc đề xướng như Công ước về quyền con người, Công ước quyền trẻ em, Công ước về việc bảo vệ di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới, Công ước về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể … Tham gia các sự kiện văn hóa, thể thao lớn do tổ chức khu vực và quốc tế tổ chức. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức quốc tế tổ chức các sự kiện văn hóa ở Việt Nam, như: Liên hoan phim quốc tế; các trận giao lưu, đấu bóng đá quốc tế: Đại lễ Phật đản Liên hiệp quốc (VESAK)… Nhiều lễ hội văn hóa du lịch có sự tham gia của các nước trên thế giới như: Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng; lễ hội hoa quốc tế Đà Lạt; Festival Huế; Lễ hội cồng chiêng quốc tế Gia Lai; Lễ hội Cà phê quốc tế Ban Mê Thuột; Lễ hội trà quốc tế Thái Nguyên…
Nhiều cơ quan tổ chức nhà nước, đơn vị sự nghiệp, tổ chức xã hội nghề nghiệp đã chủ động tham gia và là thành viên có trách nhiệm trong nhiều tổ chức quốc tế. Ví dụ: Cục Di sản văn hóa và các bảo tàng: Hồ Chí Minh, Cách mạng Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, Mỹ thuật Việt Nam, Dân tộc học Việt Nam, Địa chất Việt Nam, Chứng tích chiến tranh, Hải dương học Việt Nam là thành viên của ICOM (Hội đồng Bảo tàng Quốc tế). Thư viện quốc gia Việt Nam gia nhập và trở thành thành viên của Liên hiệp Quốc tế các hội và cơ quan thư viện thế giới (IFLA) và Hiệp hội Thư viện Đông Nam Á (CONSAL)…
Hợp tác với các nước đào tạo, bồi dưỡng tài năng văn hóa, nghệ thuật có khởi sắc. Các cơ sở giáo dục đào tạo về văn hóa ở Việt Nam đã ký kết nhiều hiệp định thư, chương trình hợp tác, biên bản ghi nhớ về đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển sự nghiệp giáo dục văn hóa trong bối cảnh kinh tế thị trường, hội nhập sâu rộng quốc tế.
Trên tinh thần “khép lại quá khứ hướng tới tương lai”, Nhà nước có chính sách thu hút Việt kiều ở các nước mang tài năng, trí tuệ, công sức đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhiều trí thức, văn nghệ sĩ Việt Nam ở nước ngoài đã về nước đầu tư và tham gia vào các dự án phát triển văn hóa.
Ban hành chính sách về thuế, về trợ giá cước vận chuyển giúp các doanh nghiệp khắc phục khó khăn, chủ động hơn trong việc đưa các sản phẩm văn hóa tốt của nước ta đến các thị trường văn hóa các nước trên thế giới, nhất là đến các thị trường trọng điểm ở các nước lớn, các nước có đông Việt kiều sinh sống. Sử dụng chính sách thuế hạn chế các sản phẩm văn hóa không khuyến khích lưu hành ở Việt Nam.
Hoạt động thông tin đối ngoại, nhanh nhạy, tin bài phong phú, đa dạng, phản ánh kịp thời các sự kiện và quan hệ quốc tế về văn hóa, giới thiệu tinh hoa văn hóa nhân loại [1], phản bác quan điểm, thông tin sai trái, khẳng định thành tựu đổi mới đất nước, góp phần tích cực xây dựng văn hóa và con người.
Ý thức của người dân bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc đồng thời với việc tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại phù hợp với thực tiễn Việt Nam được nâng lên. Cấp ủy, chính quyền nhiều địa phương quan tâm hoạt động giao lưu văn hóa nhân dân ở vùng biên giới, góp phần giữ gìn an ninh chính trị.
Tích cực cải cách thủ tục hành chính, rút ngắn thời gian kiểm duyệt, làm thủ tục khai báo và cấp phép xuất, nhập khẩu sản phẩm văn hóa. Phối hợp cùng các cơ quan chức năng tăng cường thanh tra, kiểm tra, xử lý nghiêm các sản phẩm văn hóa độc hại không phù hợp thuần phong mĩ tục của dân tộc, xuất nhập khẩu trái phép.
Phát huy vai trò của các Đại sứ quán Việt Nam thúc đẩy hội nhập quốc tế về văn hóa. Vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo môi trường hòa bình, ổn định, thân thiện thu hút khách du lịch.
3.2. Một số hạn chế, yếu kém
Tuy đạt được một số kết quả nêu trên nhưng việc tổ chức thực hiện Chiến lược văn hóa đối ngoại Việt Nam kết quả còn khiêm tốn. Nhập siêu văn hóa kéo dài. Mức đầu tư của Trung ương và địa phương cho văn hóa đối ngoại còn thấp. Nhìn chung, sản phẩm văn hóa, nghệ thuật Việt Nam chất lượng chưa cao nên khó hội nhập vào thị trường văn hóa thế giới. Việc quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài mới ở một số địa bàn, khu vực. Việc quản lý khách du lịch và hoạt động văn hóa nghệ thuật của một số tổ chức, trung tâm văn hóa nước ngoài còn bị động. Nhiều cơ quan thông tin đại chúng ở Trung ương và địa phương giới thiệu, quảng bá phim ảnh, chương trình, sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật thiếu chọn lọc. Công tác quản lý xuất nhập khẩu văn hóa phẩm chưa chặt chẽ dẫn đến để lọt sản phẩm văn hóa nước ngoài du nhập vào nước ta chưa phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống văn hóa của dân tộc, tác động tiêu cực đến nhận thức thẩm mỹ của công chúng, làm cho một số hoạt động văn hóa, văn nghệ bị lai căng, mất bản sắc. Một số sự kiện văn hóa quốc tế bị “thương mại hóa” chưa coi trọng chất lượng nội dung và nghệ thuật. Một bộ phận cán bộ, nhân dân có tâm lý sính ngoại, tiêu dùng sản phẩm văn hóa cũng như tiếp nhận lối sống thiếu chọn lọc, ảnh hưởng đến giữ gìn truyền thống văn hóa dân tộc và xây dựng con người trước thách thức toàn cầu hóa. Chưa có những giải pháp hữu hiệu, kịp thời phát triển văn hóa đối ngoại trong ứng phó và thích nghi với đại dịch cô vid 19.
4. Một số đề xuất tiếp tục chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại
4.1. Đại dịch cô vid 19 diễn ra trên phạm vi toàn cầu, đe dọa tính mệnh của người dân, ảnh hưởng đến mọi quốc gia, làm đảo lộn phương thức sản xuất, kinh doanh, học tập, hoạt động văn hóa, vui chơi giải trí. Cho dù Nhà nước đang nới lỏng giãn cách xã hội nhằm thực hiện mục tiêu kép vừa chống dịch vừa thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nhưng văn hóa vẫn là một lĩnh vực bị ảnh hưởng nặng nề khi mà mọi hoạt động tụ tập đông người phải tạm dừng ở nơi có dịch. Từ đầu năm 2000 đến nay, hầu hết các đơn vị văn hóa, nghệ thuật đã nỗ lực tìm kiếm cách thức hoạt động mới, nhất là tận dụng công nghệ số, không gian mạng để giới thiệu, quảng bá tác phẩm, đáp ứng nhu cầu hưởng thụ và sáng tạo văn hóa của nhân dân nhưng hiệu quả xã hội còn rất khiêm tốn. Tình hình trên dẫn đến hoạt động văn hóa đối ngoại, hội nhập quốc tế về văn hóa gặp rất nhiều khó khăn. Trước diễn biến phức tạp của dịch bệnh, chúng ta vừa phải chống dịch vừa phải từng bước thích nghi chung sống với dịch bệnh để tồn tại, phát triển. Do vậy, Đảng cần khảo sát nắm tình hình, tổng kết thực tiễn hoạt động văn hóa nghệ thuật trong bối cảnh đại dịch để sớm có văn bản chỉ đạo, định hướng hoạt động văn hóa đối ngoại, hội nhập quốc tế về văn hóa cho phù hợp.
Đã đến lúc Đảng cần đúc rút đưa ra một số quan điểm mới chỉ đạo sự hội nhập quốc tế về văn hóa để văn hóa Việt Nam tận dụng thời cơ, hóa giải thách thức, chủ động thích ứng hòa vào dòng chảy văn minh nhân loại và thích nghi với đại dịch cô vid 19.
4.2. Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt rất kịp thời Chiến lược văn hóa đối ngoại của Việt Nam đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030 và Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 để chủ trương chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đi nhanh vào cuộc sống. Tuy nhiên, do đại dịch cô vid 19 nên nhiều hoạt động văn hóa ở trong nước và ra nước ngoài đều bị chững lại. Nhiều công việc cần phải làm trong các Chiến lược nêu trên chưa thể triển khai nên không đạt được tiến độ đề ra. Ví dụ: nhiệm vụ thành lập một số trung tâm văn hóa ở một số địa bàn trọng điểm trên thế giới và xây dựng trung tâm dịch thuật, quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài. Vì vậy, Thủ tướng cần sớm chỉ đạo các cơ quan chuyên môn rà soát bổ sung, điều chỉnh các đầu việc và tiến độ thực hiện cho phù hợp với tình hình hiện nay.
Với kinh phí đầu tư còn hạn hẹp, công nghệ chưa tân tiến, trình độ chuyên môn thiếu tính chuyên nghiệp nên một số ngành công nghiệp văn hóa ở nước ta rất khó khăn hội nhập vào thị trường văn hóa thế giới. Cho nên, Nhà nước cần tập trung chỉ đạo, tạo điều kiện để có sự chuyển biến mạnh mẽ một số ngành công nghiệp văn hóa mà Việt Nam có ưu thế như du lịch văn hóa, thủ công mĩ nghệ, xuất bản, phần mềm và các trò chơi giải trí, truyền hình, điện ảnh... để có thể từng bước hòa nhập với thế giới, thiết thực quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam.
4.3. Phát huy sức mạnh mềm văn hóa, coi trọng nhân tố con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của sự phát triển, thời gian tới, Đảng cần chỉ đạo các cơ quan chuyên môn trong hệ thống chính trị khẩn trương đầu tư công sức, trí tuệ hoàn thiện, bổ sung quan điểm về con người. Trước mắt nhanh chóng đúc kết và xây dựng hệ giá trị chuẩn của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế làm cơ sở hoàn thiện, bổ sung quan điểm về con người. Hệ giá trị chuẩn con người Việt Nam chính là nguồn vốn và là hình ảnh của dân tộc, quốc gia Việt Nam trong các quan hệ quốc tế, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định chính trị xã hội, giữ gìn môi trường và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Lịch sử đã chứng minh, bất luận một chế độ chính trị nào cũng đều cố gắng xây dựng một hệ giá trị con người của chế độ ấy làm chuẩn mực giá trị điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội. Nếu không tạo dựng được hệ giá trị chuẩn con người trong xã hội sẽ dẫn đến loạn chuẩn, cản trở phát huy sức mạnh mềm của văn hóa trong quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa.
4.4. Với sứ mệnh là “Bà đỡ” cho văn hóa, trong đó có văn hóa đối ngoại phát triển, Nhà nước cần nhanh chóng thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật các quan điểm, nhiệm vụ của Đảng về chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Rà soát những chính sách đã có và chủ động xây dựng, ban hành những chính sách mới phù hợp với tình hình kinh tế xã hội của đất nước trong bối cảnh đại dịch cô vid 19. Ưu tiên cho các chính sách: ưu đãi đưa sản phẩm văn hóa Việt Nam ra nước ngoài; thu hút tài lực của Việt kiều, tạo điều kiện thuận lợi để họ và các tổ chức quốc tế đầu tư trí tuệ, nguồn vốn phát triển văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước đổi mới, con người Việt Nam thân thiện, năng động, trách nhiệm; tôn vinh những tổ chức, cá nhân có đóng góp công sức, tài năng, trí tuệ, tài chính thúc đẩy hội nhập quốc tế về văn hóa.
4.5. Xử lý kịp thời những thách thức nảy sinh trong quá trình hội nhập quốc tế về văn hóa, bảo đảm an ninh tư tưởng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chống những biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tăng sức đề kháng của mỗi người dân ngăn chặn, tẩy chay các sản phẩm văn hóa, thông tin độc hại từ bên ngoài xâm nhập vào nước ta, nhất là trên mạng internet, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, làm cho văn hóa trở thành sức mạnh nội sinh, “quyền lực mềm” của quốc gia trong các quan hệ quốc tế.
4.6. Nắm bắt xu hướng phát triển văn hóa trong thời đại cách mạng công nghiệp 4.0, ứng dụng thành tựu công nghệ số để chủ động đổi mới các hoạt động văn hóa đối ngoại, tăng cường tiềm lực phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thương hiệu quốc gia và các trung tâm, thành phố sáng tạo, tạo tiền đề vững chắc cho hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Kết luận
Những quan điểm của Đảng, chính sách của Nhà nước chủ động hội nhập quốc tế về văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại đã trang bị nhận thức, tạo cơ sở pháp lý vững chắc phát huy mọi năng lực sáng tạo, tranh thủ mọi nguồn vốn trong, ngoài nước cho phát triển văn hóa đối ngoại, để văn hóa thực sự là “sức mạnh mềm” của quốc gia trong các quan hệ quốc tế, đóng góp có hiệu quả vào công cuộc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, con người phát triển toàn diện.
Tài liệu tham khảo
1. Ban Chỉ đạo Trung ương Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa (2015), Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, Nxb. Văn hóa – Thông tin.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
3. file:///C:/Users/Administrator/Downloads/Quyetdinh210.pdf, truy cập ngày 30/10/2021.
4. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/quyen-dan-su/nghi-quyet-36-nq-tw-cong-tac-nguoi-viet-nam-o-nuoc-ngoai-66727.aspx?v=d, truy cập ngày 01/11/2019.
5. https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Quyet-dinh-1755-QD-TTg-chien-luoc-phat-trien-nganh-cong-nghiep-van-hoa-Viet-Nam-den-2020-2016-322023.aspx, truy cập ngày 29/10/2021.
6. https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-22-nqtw-ngay-1042013-cua-bo-chinh-tri-ve-hoi-nhap-quoc-te-26480, truy cập ngày 31/10/2021.
7. https://tuyengiao.vn/tu-lieu/huong-dan-chi-dao/huong-dan-chi-tiet-chuyen-de-hoi-nhap-quoc-te-105840, truy cập ngày 31/10/2021.
[1] Đài Truyền hình Việt Nam đã xây dựng được mạng lưới trao đổi tin bài quốc tế với gần 40 đài truyền hình thuộc hơn 30 quốc gia trên thế giới.