Hôm nay, trong những ngày lịch sử của đất nước, tại Hội trường Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, chúng ta tụ hội về đây để cùng nhau tổ chức hội thảo về một nhà yêu nước lớn, một nhà thơ lớn, một nhà văn hóa lớn của dân tộc, một bậc chí sĩ, như đánh giá của nhà sử học Trần Văn Giàu, từ khi chưa có Đảng, đã có những vần thơ đảm nhận sứ mạng tuyên truyền lòng yêu nước, chủ nghĩa yêu nước, dẫn tới sự giác ngộ của nhân dân ta để sau đó cùng Đảng ta làm nên cuộc cách mạng tháng Tám long trời lở đất, mở ra kỷ nguyên độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Bậc chí sĩ ấy đã từ biệt chúng ta vừa đúng 35 năm (1983-2018), nhưng tinh thần yêu nước của cụ, những vần thơ bất hủ của cụ, tấm gương sống thanh cao của cụ chắc chắn mãi còn ngời sáng, là nguồn động viên tinh thần quý giá đối với các thế hệ Việt Nam trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng, đổi mới, phát triển, giao lưu hội nhập của đất nước ta hôm nay và trong tương lai.
Hội thảo “Á Nam Trần Tuấn Khải – Danh nhân văn hóa dân tộc” do Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa Dân tộc phối hợp với gia đình cụ Á Nam tổ chức là dịp chúng ta cùng ôn lại để nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn nhằm phổ biến rộng rãi hơn những giá trị quý giấ trong cuộc đời và sự nghiệp của Á Nam Trần Tuấn Khải như một cách làm cho “ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”.
Ban tổ chức hội thảo rất vui mừng và cám ơn sự có mặt của nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành ủy Hà Nội Phạm Quang Nghị, GSVS Đặng Vũ Minh, Chủ tịch Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật VN, TS Bùi Thế Đức, Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương, NSND Vương Duy Biên, Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Đại diện Liên hiệp các hội Văn học nghệ thuật VN, Hội Nhà văn VN, Hội Nghệ sĩ Sân khấu VN, đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ của thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, của quê hương Nam Định và nhiều vùng miền cả nước cùng đại diện các cơ quan báo chí Trung ương và Hà Nội.
Đặc biệt, chúng tôi xin giới thiệu và hoan nghênh sự có mặt của nữ sĩ Lan Hinh, con gái của Á Nam Trần Tuấn Khải, người bao năm nay âm thầm hoạt động không mệt mỏi để gìn giữ và quảng bá cuộc đời sự nghiệp quang vinh của phụ thân và hôm nay phối hợp với Trung tâm chúng tôi tổ chức cuộc hội thảo nhiều ý nghĩa này.
Kính thưa các đại biểu tham dự hội thảo
Cụ Á Nam Trần Tuấn Khải sinh năm 1895 tại làng Quan Xáng, xã Mỹ Hà, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định trong một gia đình có truyền thống nho học yêu nước. Cha cụ đã đỗ cử nhân tại kỳ thi Hương năm Canh tý (1900), từng làm huấn đạo tại Cẩm Giàng, Hải Dương. Mẹ cụ là con một hào phú cùng làng, rất hiền hậu thông minh, không những thuộc mà con hay “đặt” rất nhiều ca dao dân ca để hát ru con. Nhờ cha mẹ, Á Nam sớm tích lũy vốn Hàn học và ca dao dân ca từ thuở ấu thơ. Năm 12 tuổi, cụ đã làm đủ các thể thơ bằng chữ Hán và chữ Quốc ngữ. Năm 1914, khi 19 tuổi, Á Nam đã có những bài thơ nổi tiếng như Tiễn chân anh khóa xuống tàu, Gánh nước đêm…Năm ấy, cũng là năm cha cụ lâm bệnh mất khi đang làm quan ở Cẩm Giàng, cụ tự lập bằng nghề dạy học tại quê được ít lâu rồi đưa vợ con lên Hà Nội, ở một trang trại tại Thái Hà ấp.
Năm 1920, sau khi tập thơ đầu tay Duyên nợ phù sinh 1được nhà in Trung văn của Nguyễn Văn Vĩnh ấn hành, gây xôn xao dư luận văn chương báo chí trong Nam ngoài Bắc, Á Nam Trần Tuấn Khải tự tin bước vào nghề báo, bắt đầu là trong Ban biên tập tờ Khai hóa của nhà tư sản dân tộc Bạch Thái Bưởi rồi các báo khác ở khắp Bắc Trung Nam như Thực nghiệp dân báo, Trung Bắc tân văn, Đông Dương tạp chí, Nam phong tạp chí…ở Hà Nội, Tiếng dân, Nữ lưu thư quán ở Huế và Đông Pháp thời báo, Phụ nữ tân văn ở Sài Gòn với các bút danh Á Nam, Lâm Tuyền Khách, Côi Hoàng Cư Sĩ, Côi Hoàng Khách, Tiếu Hoa Nhân, Giang Hồ Khách, Đông A, Đông A Thị, Đông Minh, Công Chính…Từ đây, Trần Tuấn Khải đã kết giao với nhiều văn thân yêu nước có tinh thần dân tộc như Phan Khôi, Sở Cuồng Lê Dư, Mai Đăng Đệ, Nguyễn Đỗ Mục, Đàm Xuyên Nguyễn Phan Lãng, Ngô Đức Kế, Đạm Phương nữ sử…
Từ năm 1921 đến 1930, Á Nam Trần Tuấn Khải là một trong những tên tuổi nổi bật và có ảnh hưởng lớn nhất trên văn đàn Việt Nam với hàng chục cuốn sách bán rất chạy gồm 3 tập thơ gồm Duyên nợ phù sinh (hai quyển), Bút quan hoài (2 quyển), Hồn tự lập (2 quyển), các bộ sách lớn dịch từ Trung Hoa như Đông Chu liệt quốc, Thủy hử, Đông Chu liệt quốc. Liêu Trai chí dị, Hồn hoa, Trai anh hùng, gái thuyền quyên, Đăng khấu chí,Tam tự kinh tập đọc, Mạnh tử và các sách biên khảo như Gương bể dâu (truyện lịch sử), Ngụ ngôn tập đọc(gồm một số câu chuyện Việt Nam để giáo dục trẻ em), Bài hát nhà quê (Khuyến nông công thương). Năm 1925 cụ còn sáng tác một vở kịch mang tên Mảnh gương đời…Đây là thời gian các câu thơ đau đớn bùng nổ đầy tính hiệu triệu của Trần Tuấn Khải như:
“Coi lịch sử gương kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?”…
Gan tráng sĩ vững sau như trước,
Chí nam nhi lấy nước làm nhà,
Tấm thân sẻ với sơn hà,
Tượng đồng bia đá hoạ là cam công.
Và đặc biệt là 3 bài hát xẩm về Anh Khóa mở đầu bằng câu “anh Khóa ơi, em tiễn chân anh xuống tạn bến tàu” được hát khắp trong Nam ngoài Bắc thôi thúc thế hệ thanh niên yêu nước đương thời vùng lên chống chế độ thực dân thuộc địa, tìm đường cứu nước.
Nhưng cũng từ giai đoạn này, ngọn lửa yêu nước hừng hực trong các bài thơ của Trần Tuấn Khải đã bị mật thám Pháp đặc biệt chú ý. Tập thơ Hồn tự lập I và II mới in ra 6 ngày thì bị cấm, tuy 3000 bản vẫn được bán hết ngay vài ngày sau đó. Mấy tháng sau tập thơ Bút quan hoàiI và II cũng bị tịch thu, cấm lưu hành tàng trữ trong nước.
Thời gian này, Trần Tuấn Khải cũng nuôi ý chí xuất dương sang Nhật sang Pháp tìm đường cứu nước.Khi Phan Bội Châu được an trí ở Huế, Trần Tuấn Khải đã bí mật lặn lội vào thăm. Ở Huế, cụ gặp Huỳnh Thúc Kháng để mong được chỉ giáo. Vào Sài Gòn, Trần Tuấn Khải được Diệp Văn Kỳ, Bùi Thế Mỹ, những nhà báo cự phách của Nam Kỳ mời cộng tác nhưng do ý định xuất dương không thành, Trần Tuấn Khải trở về Hà Nội và kết giao thân thiết với Nguyễn Thái Học, Ký con trong nhóm Việt Nam Quốc dân đảng.
Năm 1932, sách Chơi xuân năm Nhâm thâncủa cụ xuất bản, trong đó có thuật lại việc thực dân Pháp đàn áp dã man cuộc khởi nghĩa Yên Bái, Ngay lập tức sách bị tịch thu, tiêu hủy, tác giả và chủ nhà sách Nam Ký, nơi ra sách, bị bắt giam. Thực dân Pháp đem cả hai ra xử ba lần, nhưng không đủ chứng cớ nên phải xử hai người 2 tháng tù treo về tội viết sách "phá rối trị an, xúi dân nổi loạn"và thả tự do. Khi ra tù thì người vợ yêu quý của cụ, bà Nguyễn Thị Khuê qua đời. Năm 1938, cụ tục huyền với bà Nguyễn Thị Lũy, con gái một nhà giàu ở Phú Đô (Hoài Đức, Hà Tây), kém ông 25 tuổi, sinh được con gái là nhà thơ Lan Hinh hiện nay.
Những năm 1930-1945, dù bị chính quyền thực dân theo dõi, kiểm duyệt gắt gao, ít nhà xuất bản, nhà in nào dám nhận in tác phẩm của cụ, Á Nam Trần Tuấn Khải vẫn cho ra tập thơ Với sơn hàI đầy khí phách yêu nước và gần chục cuốn sách khác gồm một số bộ tiểu thuyết lịch sử, võ hiệp như Thạch đầu hồn, Thiên thai lão hiệp (sáng tác), Kiếm châu duyên,Không Động kỳ hiệp,Kiền khôn võ hiệp, Vạn lý tình hiệp, hiệp tình tiểu thuyết(dịch) và dịch hai bộ tiểu thuyết kinh điển của Trung Quốc là Hồng lâu mộngvàHồng Tú Toàn.
Sau 1945, khi Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Trần Tuấn Khải đưa gia đình lên tản cư ở Sơn Tây, năm 1947 nhà cửa, sách vở bị đốt hết. Năm 1948, trong hoàn cảnh bất khả kháng, cụ đưa gia đình về lại Hà Nội, đi dạy học ở Trung học Chu Văn An, nữ học Trưng Vương, trường Nguyễn Trãi và môt số trường tư thục. Năm 1949,cụ cho xuất bản tập thơ Với sơn hà II tại Hà Nội tạm bị chiếm.
Sau năm 1954, cụ vào Nam ở với mấy người con lớn đã sinh sống ở Sài Gòn từ lâu. Năm 1959, cụ chủ trương tờ Văn học tạp chí, nhưng chỉ ra được 2 số, sau không có tiền nên phải đình bản. Từ 1960, Á Nam Trần Tuấn Khải làm chuyên viên Hán học tại Nha Văn hóa, rồi Ban dịch thuật Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa và cộng tác với các tờ báo có tinh thần dân tộc như Đuốc Nhà Nam, Văn hóa nguyệt san, Tin văn...Năm 1966, cụ cùng một số trí thức Sài Gòn ký tên yêu cầu chính quyền Việt Nam Cộng hòa hiệp thương với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam nhằm vãn hồi hòa bình, nên bị buộc nghỉ việc. Sau đó cụ được mời ra làm Chủ tịch danh dự Lực lượng Bảo vệ Văn hóa Dân tộc do Mặt trận Dân tộc Giải phóng tổ chức.
Trong thời gian 20 năm ở miền Nam trước giải phóng, cụ vẫn sáng tác, biên khảo, dịch thuật rất bền bỉ. Theo thống kê của TS Phan Mạnh Hùng, Khoa Văn học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh, thì chỉ trên tờ Văn hóa Nguyệt san, từ số 2 (tháng 5 năm 1955) đến số 79 (tháng 3 năm 1963), trong khoảng gần 9 năm, Á Nam Trần Tuấn Khải đã công bố tổng cộng 53 đơn vị mục bài, bao gồm khảo cứu, dịch thuật và sáng tác thơ, kịch bản sân khấu.Điều đáng nói, tuy Văn hóa nguyệt san là tạp chí thuộc Cơ quan truyền bá Giáo dục, Khoa học và Văn hóa, Bộ Quốc gia Giáo dục chính quyền Sài Gòn nhưng lại có tôn chỉ mục đích rất tiến bộ là “Góp phần vào việc xây dựng một nền văn hóa mới, hoàn toàn Việt Nam... cố dung hòa nền nếp cũ với tư tưởng mới, đề chọn lọc những cái tốt đẹp ở bất cứ một nguồn gốc nào”.Về nguyên tắc hoạt động, tạp chí đưa ra 3 nguyên tắc: đại chúng hóa, dân tộc hóa và khoa học hóa dễ làm nhớ đến 3 nguyên tắc của nền văn hóa mới được đưa ra trong Đề cương văn hóa VN của Đảng ta năm 1943. Có lẽ đây là lý do giải thích vì sao Trần Tuấn Khải gắn bó với tạp chí này lâu dài đến vậy.
Trong 53 mục bài trên Văn hóa nguyệt san, đáng chú ý là ở các mục bài dịch thuật khảo cứu. Ở đây, ngoài các các bài giới thiệu khá sâu với cách tiếp cận khá hiện đại về tư tưởng của Trang Tử, Khổng Tử, Đỗ Phủ, Lương Khải Siêu, cách mạng Trung Hoa thời hiện đại, Á Nam tập trung vào những công trình về cổ văn Việt Namnhư Việt Nam thông khảo tổng luận (Tổng luận các triều đại trong sử Việt), Thuật hoài (Sao lục và phiên dịch, chú thích, nguyên tác của Nguyễn Thượng Hiền),Ức Trai tướng công di tập: Dư địa chí (sưu dịch các tác phẩm của Nguyễn Trãi). Còn về sáng tác, ngoài 33 bài thơ mới chưa in trong các tập thơ trước đây, Á Nam cho công bố một kịch bản sân khấu thể loại hát chèo có tên gọi Trung hiếu lưỡng toàn nói về chiến công bình Nguyên của Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn.
Ngoài những khảo cứu,dịch thuật, sáng tác in trên Văn hóa Nguyệt san,Trần Tuấn Khải còn công bố một số khác trên báo chí Sài Gòn nhưng nay chưa thể thống kê được. Trần Tuấn Khải còn cho xuất bản 1 bộ sách lớn về Nguyễn Trãi và 1 bộ sách lớn về Triều Nguyễn là “Tự Đức thánh chế văn tam tập” (trọn bộ 6 quyển).
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, Á Nam Trần Tuấn Khải được mời làm cố vấn cho Hội Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh. Sau những bài Xẩm nổi tiếng “Tiễn chân anh khóa xuống tàu” năm 1914, “Mong anh khóa” năm 1915, “Gửi thư cho anh khóa” năm 1922, viết những năm còn trai trẻ, ở tuổi 80, Á Nam lại hân hoan viết bài Xẩm “Mừng anh khóa trở về” để mừng non sông đất nước đoàn viên trong độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất với những câu hát tràn đầy yêu thương tin tưởng:
Sẽ cùng nhau thắt chặt sợi tơ đồng,
Cùng nhau bồi đắp cơ nghiệp cha ông cho được vẹn toàn.
Anh khoá ơi! Ta sẽ làm cho nổi tiếng với doanh hoàn
Làm cho dân tộc với giang san rạng rỡ hơn người
Làm cho Bắc Nam xum họp chung vui
Cho nhau hưởng phúc muôn đời, anh khoá em ơi!
Đây là những câu hát chứa đựng ước mơ cháy bỏng từ những tháng năm đất nước còn nô lệ lầm than của Á Nam Trần Tuấn Khải, cũng là ước mơ cháy bỏng mà Đảng ta, nhân dân ta đang phấn đấu thực hiện trong sự nghiệp đổi mới phát triển, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giao lưu hội nhập của đất nước hôm nay.
8 năm sau ngày đất nước thống nhất, năm 1983, tại nhà riêng ở cư xá Trần Quốc Toản, TP Hồ Chí Minh, Á Nam Trần Tuấn Khải đã lặng lẽ tạ thế ở tuổi 89, sau gần một thế kỷ sống và cầm bút quang vinh vì quê hương đất nước, để lại cho hậu thế một khối di sản văn chương nghệ thuật đồ sộ, giá trị gồm 9 tập thơ, 2 vở kịch, hàng chục truyện, tiểu thuyết, hàng chục biên khảo về văn hóa dân tộc, hàng chục bộ sách dịch lớn giới thiệu tinh hoa văn hóa thế giới.
Thưa các vị đại biểu tham dự hội thảo!
Đánh giá về Á Nam Trần Tuấn Khải, nhà thơ Xuân Diệu cho rằng, cùng với Tản Đà, Á Nam Trần Tuấn Khải là một trong hai nhà thơ lớn nhất Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ 20, cả hai thi sĩ bổ khuyết cho nhau làm cái gạch nối quý báu từ thơ của Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương sang thơ của các nhà Thơ Mới 1932 – 1945. Nhà văn, nhà cách mạng Trần Bạch Đằng thì cho rằng Á Nam Trần Tuấn Khải là một nhà thơ lớn bởi đồng thời làmột nhà tư tưởng, nhà văn hóa, nhà yêu nước.
Như trên đã nói, nhà cách mạng, nhà sử học tiền bối Trần Văn Giàu đánh giá rất cao giá trị thức tỉnh lòng yêu nước của thơ Á Nam Trần Tuấn Khải. Ông viết: “Khi chưa có Đảng Cộng sản mạnh để tuyên truyền, khi chưa có đảng viên giác ngộ, thơ Á Nam đã làm sứ mạng tuyên truyền lòng yêu nước, chủ nghĩa yêu nước, từ đó dần dần giác ngộ cách mạng”. Cố Tổng bí thư Lê Duẩn cũng từng nói với anh em văn nghệ rằng chính những bài thơ hừng hực, lay động lòng người của Á Nam Trần Tuấn Khải đã làm thế hệ ông bồn chồn, không thể ngồi yên, phải tìm cách “theo chân anh khóa” lên đường cứu nước.
Nhà văn lớn Nguyễn Đình Thi thì viết về Á Nam Trần Tuấn Khải như sau: “Thơ của cụ Á Nam vừa có cái văn hiến uyên bác nhiều đời của dân tộc ta, nhưng lại có cái hồn dân gian của người dân rất bình thường. Bài Mong anh Khóa thì không những các bậc sĩ phu phải cúi mình nể phục, mà một chị gánh nước bên đường hoặc một em bé học trò như tôi lúc đó chưa hiểu gì cũng đã cảm thấy được có gì đó đem đến cho mình và cũng có một chút gì đó của mình ở trong đó. Cụ là một thiên tài về thơ văn của dân tộc”.
Còn nhà thơ lão thành Khương Hữu Dụng thì khẳng định sau đám tang Á Nam Trần Tuấn Khải: “Nhà thơ không chết, Á Nam Trần Tuấn Khải vẫn còn sống trong lòng những người Việt Nam yêu nước đã từng đọc thơ ông”…
Cảm nhận, đánh giá về cuộc đời và thơ văn của Á Nam Trần Tuấn Khải còn rất nhiều ý kiến sâu sắc, xúc động của nhiều nhà chính trị, văn hóa, trí thức văn nghệ sĩ nhiều thế hệ của đất nước ta tiêu biểu là các nhà thơ Tố Hữu, Huy Cận, Chế Lan Viên, nhà văn Vũ Ngọc Phan, GSTS Trần Văn Khê, GS nhạc sĩ Tô Vũ, nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý, các GS Trần Thanh Đạm, Hoàng Như Mai, Lê Trí Viễn, Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức, Nguyễn Đình Chú …tôi không có điều kiện trích dẫn hết trong bài đề dẫn này.
Mong muốn của hội thảo chúng ta là kế tục các thế hệ đi trước, tiếp tục tìm hiểu, khám phá, phát hiện, cảm nhận, đánh giá sâu sắc hơn nữa, toàn diện hơn nữa tấm gương yêu nước thương nòi cùng những giá trị to lớn bất hủ của khối di sản văn chương nghệ thuật đồ sộ của Á Nam Trần Tuấn Khải, khẳng định tầm vóc một danh nhân văn hóa dân tộc của cụ cũng như đề nghị Đảng, Nhà nước ta có những hình thức tôn vinh xứng đáng đối với nhà chí sĩ, nghệ sĩ vĩ đại này.
Ban tổ chức rất vui mừng khi nhận được hơn 20 tham luận công phu tâm huyết của các học giả, nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ ở thủ đô Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và nhiều vùng miền khác của cả nước. Các tham luận này cùng sự có mặt của đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ, nhà báo ở quê hương Nam Định cũng như cả nước là những đảm báo cho thành công của hội thảo nhiều ý nghĩa nhân ký niệm 73 năm cách mạng tháng Tám và Quốc khánh của chúng ta.
Xin trân trọng cám ơn tất cả.
Xin chúc tất cả quý vị sức khỏe, may mắn!
Chúc hội thảo thành công tốt đẹp!
GS Hoàng Chương,
Tổng Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy Văn hóa Dân tộc VN