Tên gọi huyện Thanh Giang qua bài thơ: Thanh Giang giao du sơn đạo

11/05/2022 16:58

Theo dõi trên

Xét về thời điểm bài thơ ra đời là khoảng vào cuối thế kỷ XV, tức là khoảng sau năm 1475, khi ông Thái Thuận đậu Tiến sỹ, được bổ làm quan và đi công cán ở thừa tuyên Nghệ An. Điều này cho thấy, tên gọi huyện Thanh Giang đến năm 1475 vẫn còn tồn tại.

dao-che-1-sggp-skox-1652262880.jpg
Đảo chè huyện Thanh Chương. Ảnh: Mộc Miên

Thanh Giang là tên gọi trước đây của huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An ngày nay. Tên gọi huyện Thanh Giang đã đã được nhiều tài liệu lịch sử đề cập đến như Đại Nam nhất thống chí do Quốc sử quán triều Nguyễn (biên soạn vào đầu thế kỷ XX); Sách Nghệ An ký và Thanh Chương huyện chí của Bùi Dương Lịch (biên soạn vào đầu thế kỷ XIX); Sách Thanh Chương huyện chí của tác giả Nguyễn Điển (biên soạn vào giữa thế kỷ XIX); Sách Hoan Châu ký của nhóm tác giả Nguyễn Cảnh thị (biên soạn vào khoảng cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII); Tác phẩm Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư dẫn của Đỗ Bá Công Đạo (biên soạn vào khoảng cuối thế kỷ XVII)...

Tuy nhiên đây đều là các tác phẩm ra đời khá muộn. Gần đây, chúng tôi phát hiện được một tư liệu mới viết về địa danh Thanh Giang khá sớm đó là bài thơ Thanh Giang giao du sơn đạo được đăng trong tập Lữ Đường di cảo thi tập của tác giả là Tiến sỹ Thái Thuận. Bài thơ, Thanh Giang giao du sơn đạo (Trên đường chơi núi ở phía ngoài Thanh Giang) của tác giả Thái Thuận được làm vào khoảng cuối thế kỷ XV. Bài thơ có nội dung:

Phiên âm:

Thanh Giang giao du sơn đạo

Bất quản sơn thâm hổ báo đa,

Xâm thần ỷ kiệu việt tha nga.

Lâm trăn hữu đạo thông hồ thố,

Quán mãng vô nhân trưởng tiết la.

Phi giản đái hàn nham hạ lạc,

Thanh phong tống ảnh thụ biên qua.

Nguy nguy Thánh Tổ hành doanh tại,

Diệt tặc công cao thạch bất ma.

Dịch nghĩa:

Trên đường chơi núi ở phía ngoài Thanh Giang

Chẳng ngại núi sâu có nhiều hổ báo,

Tảng sáng ngồi kiệu vượt núi chênh vênh.

Rừng rậm có đường thông nẻo đi của loài cáo thỏ,

Bụi cây hoang không người qua lại um tùm những dây cỏ rêu dại.

Suối bay mang giá lạnh lao xuống dưới núi,

Gió mát đưa bóng lướt qua mé cây.

Hành dinh của Thánh Tổ cao vòi vọi còn đây,

Công cao diệt giặc, đá không thể mòn.

danh-xung-thanh-giang-duoc-do-ba-cong-dao-ghi-trong-tac-pham-thien-nam-tu-chi-lo-do-thu-dan-1652261368.jpg
Danh xưng Thanh Giang được ông Đỗ Bá Công Đạo ghi trong lời dẫn của tác phẩm Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư dẫn. Ảnh: Tư liệu

Tác giả bài thơ Thanh Giang giao du sơn đạo là Tiến sỹ Thái. Ông Thái Thuận (1441 - ?), tự: Nghĩa Hòa, hiệu: Lục Khê, biệt hiệu: Lã Đường; là nhà thơ Việt Nam thời Hậu Lê. Ông sinh ra trong một gia đình bình dân ở thôn Đoài, tổng Liễu Lâm, phủ Siêu Loại, thừa tuyên Kinh Bắc (nay thuộc xã Song Liễu, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh). Thuở trai trẻ, có thời ông làm lính dạy voi, về sau mới đi học. Năm Ất Mùi (1475), đời Lê Thánh Tông, ông thi đỗ Tiến sĩ.

Ban đầu, ông làm quan ở Viện Hàn lâm trải 20 năm; sau giữ chức Tham chính sứ Hải Dương và được cử đi công cán qua các vùng Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Bình, Quảng Trị, Thuận Hóa...

Ông là người có đạo đức, lại có tài văn chương, được người đương thời rất kính trọng. Vì vậy, ông được vua Lê Thánh Tông cho dự chức Tao đàn Sái phu (sau thăng Tao đàn phó nguyên súy) trong Hội Tao Đàn do chính nhà vua thành lập năm 1495.

Nhà thơ Thái Thuận mất năm nào không rõ. Sinh thời, ông sáng tác hàng nghìn bài thơ chữ Hán nhưng chưa soạn thành tập. Sau khi ông mất, người con là Thái Đôn Khác và người học trò là Đỗ Chính Mô mới ra công sưu tập được vài trăm bài, viết bài Tựa, đặt tên là Lã Đường di cảo (Bản thảo còn lại của Lã Đường) và hoàn thành vào năm Hồng Thuận thứ 10 (1510) đời vua Lê Tương Dực.

Sau, phần lớn trong trong tập thơ này được trích tuyển trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn (125 bài), và trong Toàn Việt thi lục của Bùi Huy Bích (25 bài). Tập Lã Đường di cảo hiện nay chỉ còn 264 bài thơ chữ Hán. Gần đây, thơ ông được thi sĩ Quách Tấn tuyển dịch, đặt tên là Lữ đường thi và đã được nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 2001.

Thái Thuận là người có biệt tài làm thơ hầu như trong các đợt công cán, đi tới đâu ông cũng có thơ ở đó như qua thừa tuyên Thanh Hoa ông có bài Thanh Hoa thành thu tịch; tới Thuận Hóa có bài Thuận Hóa thành tức sự… Khi ông đi công cán qua huyện Thanh Giang, thuộc thừa tuyên Nghệ An đã làm bài Thanh Giang giao du sơn đạo. Bài thơ tả về cảnh sắc của vùng đất Thanh Giang, nơi có cảnh sơn thủy hữu tình và là nơi có hành dinh của vua Lê Lợi đóng trong cuộc khởi nghĩa chống quân Minh.

dau-tich-thanh-luc-nien-o-nam-dan-1652261842.jpg
Dấu tích thành Lục Niên tại dãy Thiên Nhẫn nơi từng đóng hành dinh của Vua Lê Lợi trong thời kỳ chống quân Minh xâm lược nước ta ở thế kỷ XV. Ảnh: internet 

Điều thú vị ở đây là tên gọi của bài thơ nhắc đến một danh xưng rất cụ thể đó là Thanh Giang, nơi có hành dinh của của Thanh Tổ - tức là Vua Lê Lợi đóng. Hành dinh mà vua Lê Lợi đóng đó chính là thành Lục Niên. Theo các tư liệu lịch sử để lại, thành Lục Niên được Lê Lợi cho xây đắp vào cuối năm 1424 sau khi kéo quân vào Nghệ An. Thành có hình chữ nhật, chiều dài hàng trăm mét, xây theo kiểu ghép đá trên độ cao 178m. Do nằm trên đỉnh núi cao nên thành là nơi bộ chỉ huy nghĩa quân Lam Sơn có thể quan sát bao quát và khống chế cả một vùng rộng lớn của lưu vực sông Lam, sông La, đồng thời theo dõi hoạt động của quân Minh trong thành Nghệ An. Thành Lục Niên còn là nơi Lê Lợi chỉ huy nghĩa quân vây hãm thành Nghệ An, xây dựng lực lượng để tiến quân ra Bắc, tiêu diệt quân Minh xâm lược thế kỷ XV. Thanh Lục Niên xưa thuộc huyện Thanh Giang, sau này thuộc huyện Thanh Chương, đến đầu thế kỷ XX, triều đình nhà Nguyễn cắt vùng tổng Nam Kim cho sáp nhập vào huyện Nam Đàn. Nên đến nay, vùng đất này thuộc xã Nam Kim, huyện Nam Đàn.

Theo cuốn Nghệ An ký do Bùi Dương Lịch viết, cho biết: Tên gọi Thanh Giang “có từ đầu thời Lê Sơ” (tức giai đoạn 1427 - 1527). Cuốn Thanh Chương huyện chí do tác giả Nguyễn Điển soạn có ghi: “Thanh Chương thời thuộc Minh (1414 - 1427) gọi là Thổ Du, đầu thời Lê gọi là Thanh Giang, sau đổi là Thanh Chương”. Như vậy, địa danh Thanh Giang ở trong bài thơ này chính là huyện Thanh Giang mà các ông Bùi Dương Lịch, Nguyễn Điển đã nêu lên trong các cuốn sách của mình.

Xét về thời điểm bài thơ ra đời là khoảng vào cuối thế kỷ XV, tức là khoảng sau năm 1475, khi ông Thái Thuận đậu Tiến sỹ, được bổ làm quan và đi công cán ở thừa tuyên Nghệ An. Điều này cho thấy, tên gọi huyện Thanh Giang đến năm 1475 vẫn còn tồn tại. Bài thơ không chỉ là một áng văn hay, mà còn là một tư liệu lịch sử quý để góp phần vào việc giúp xác định một cách chính xác nhất về danh xưng huyện Thanh Giang xưa và huyện Thanh Chương ngày nay.

Khánh Chi
Bạn đang đọc bài viết "Tên gọi huyện Thanh Giang qua bài thơ: Thanh Giang giao du sơn đạo" tại chuyên mục Khám phá. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.