Tóm tắt: Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là vùng đất trẻ, với nhiều tiềm năng, lợi thế trong sự phát triển. Văn hóa, con người ở nơi đây mang đậm những dấu ấn riêng, là động lực quan trọng trong quá trình đổi mới, chuyển mình và cất cánh của vùng “đất chín rồng”. Sau 40 năm đổi mới, những thời cơ và thách thức trong phát triển văn hóa (PTVH), con người ở ĐBSCL đan xen, những thành tựu và hạn chế trong lĩnh vực này cũng song tồn. Vấn đề đặt ra là cần phải nhận diện rõ những mặt làm được, chưa làm được, từ đó làm căn cứ để đề xuất những giải pháp hiệu quả nhằm PTVH, con người vùng ĐBSCL ở những giai đoạn tiếp theo.
Từ khóa: Đồng bằng sông Cửu Long, văn hóa, con người, đổi mới.
1. Quan điểm của Đảng về phát triển văn hóa, con người từ năm 1986 đến nay
Quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản trên lĩnh vực văn hóa là vấn đề thường xuyên được đặt ra ngay từ khi Đảng Cộng sản ra đời - là lực lượng duy nhất lãnh đạo sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Cùng với quá trình đó là sự hoàn thiện về mặt tư duy, nhận thức của Đảng về văn hóa, con người cũng như sự đóng góp, vai trò của văn hóa, con người đối với sự phát triển đất nước; hoàn thiện năng lực lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn hóa. Trải qua hơn 90 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, với tất cả sự cầu thị trước một lĩnh vực cực kỳ phong phú, tinh tế này, Ðảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã liên tục chú trọng tổng kết thực tiễn, tìm tòi, xây dựng và không ngừng bổ sung, hoàn thiện quan điểm, đường lối PTVH Việt Nam phù hợp với yêu cầu cách mạng và tiến trình lịch sử của đất nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991) đã khẳng định nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc phải là một trong sáu “đặc trưng” tạo nên chủ nghĩa xã hội, nghĩa là văn hóa là một thành tố hữu cơ, không thể thiếu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam. Từ thực tiễn lãnh đạo văn hóa trong thời kỳ đổi mới, Ðảng Cộng sản Việt Nam đã nêu rõ 5 quan điểm chỉ đạo xây dựng và PTVH Việt Nam.
Thứ nhất, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Khẳng định vị trí, vai trò đó của văn hóa là một bước tiến cơ bản trong tư duy của Ðảng Cộng sản Việt Nam. Chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, vì xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và vì sự phát triển toàn diện của con người. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực, là nguồn lực nội sinh của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ hai, nền văn hóa mà Việt Nam xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Sự xuyên thấm vào nhau của hai nhân tố đó tạo nên phẩm chất của nền văn hóa Việt Nam đương đại.
Thứ ba, nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Ðó là nền văn hóa chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, trong đó, mỗi dân tộc đều có những sắc thái, những giá trị văn hóa độc đáo, đồng thời chúng bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa chung.
Thứ tư, xây dựng và PTVH là sự nghiệp của toàn dân do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng. Mọi người dân đều tham gia vào sự nghiệp xây dựng văn hóa, là chủ thể của quá trình văn hóa, từ sáng tạo, truyền bá, giữ gìn đến thụ hưởng văn hóa, sản xuất và tham gia quản lý văn hóa. Ðảng Cộng sản Việt Nam khẳng định, đội ngũ trí thức luôn luôn giữ vai trò quan trọng trong PTVH.
Thứ năm, văn hóa là một mặt trận; xây dựng và PTVH là sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Nhận thức sâu sắc tính đặc thù của quá trình xây dựng văn hóa, Ðảng Cộng sản Việt Nam cho rằng, đó là công việc đầy khó khăn, phức tạp, đòi hỏi nhiều công sức và thời gian. Tại Hội nghị Trung ương 10 khóa IX (2004), Ðảng Cộng sản Việt Nam đã tiến thêm một bước khi kết luận: Bảo đảm sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng, chỉnh đốn Ðảng là then chốt với không ngừng nâng cao văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội, tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực trên chính là điều kiện quyết định bảo đảm cho sự phát triển toàn diện và bền vững của đất nước.
Cương lĩnh Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) cũng xác định: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hoá gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”.
Tiếp đó, năm 2014, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI của Đảng tiếp tục chỉ ra “Về xây dựng và PTVH, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, trong đó đã nhấn mạnh đến xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.
Tiếp tục phát triển các quan điểm về PTVH, Đại hội XIII của Đảng đã nhấn mạnh quan điểm văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh hun đúc nên phẩm chất, cốt cách con người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nhấn mạnh xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong bối cảnh kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Như vậy, quan niệm của Đảng ta về văn hóa khẳng định “Văn hóa là tổng thể những giá trị vật chất và tinh thần”, nhưng đồng thời khẳng định vai trò của văn hóa “là nhu cầu thiết yếu của đời sống con người”, “là lĩnh vực sản xuất tinh thần, tạo ra các giá trị, sản phẩm làm giàu đẹp cuộc sống”, “là nền tảng tinh thần của xã hội, sức mạnh nội sinh”, “là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước”. Đồng thời chỉ rõ vị trí của văn hóa - “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”.
2. Thực tiễn công cuộc đổi mới trên lĩnh vực văn hóa, con người vùng đồng bằng sông Cửu Long
2.1. Về văn hóa
ĐBSCL là vùng văn hóa giàu bản sắc. Tuy nhiên, những năm gần đây, mặt trái của kinh tế thị trường, quá trình đô thị hóa, hiện đại hóa, toàn cầu hóa và biến đổi khí hậu đã có những tác động trực tiếp đến văn hóa Tây Nam Bộ, đặt ra nhiều thách thức đối với việc phát triển bền vững vùng đất này. Qua 40 năm đổi mới, diện mạo văn hóa của ĐBSCL có nhiều thay đổi.
Các lĩnh vực, loại hình, sản phẩm văn hóa phát triển ngày càng đa dạng, đáp ứng nhu cầu mới, nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa được kế thừa, bảo tồn và phát huy. Hiện toàn vùng có 9 di tích quốc gia đặc biệt, 204 di tích quốc gia, 618 di tích cấp tỉnh/thành phố và 51 di sản văn hóa phi vật thể trong danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, nhiều di sản văn hóa phi vật thể đã trở thành thương hiệu, ví dụ như Đua Ghe Ngo - Sóc Trăng, Lễ hội Bà Chúa Xứ An Giang, Lễ hội Ook om bok Trà Vinh.
Công tác bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống trong các gia đình, cộng đồng được quan tâm thực hiện, nhất là văn hóa lễ hội của đồng bào dân tộc thiểu số. Việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, các lễ hội truyền thống, tôn giáo tín ngưỡng và các hoạt động gắn với thiết chế văn hóa, ngày hội giao lưu văn hóa, thể thao và du lịch đồng bào Chăm, Khmer, Hoa,…được quan tâm, chú trọng. Một số tri thức bản địa được duy trì và phát huy (toàn vùng có 07 nghệ nhân nhân dân, 167 Nghệ nhân ưu tú). Các bảo tàng đã chủ động, tích cực sáng tạo, đổi mới các hoạt động tạo sự hấp dẫn và từng bước thu hút sự quan tâm của công chúng. Hệ thống thư viện được nâng cấp, đổi mới phương thức hoạt động và mở rộng các dịch vụ mới (toàn vùng có 13 thư viện cấp tỉnh, 530 thư viện cấp huyện, xã, 1578 phòng đọc cơ sở, 3.102.242 tài liệu trong hệ thống thư viện, tổng số thẻ bạn đọc là 45.457 thẻ). Phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” gắn với phong trào xây dựng nông thôn mới có chất lượng hơn, hiệu quả hơn, thực sự đi vào cuộc sống, khơi dậy tinh thần đoàn kết giúp đỡ nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, xây dựng đô thị văn minh hiện đại. Tỷ lệ hộ gia đình đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt 92%, tỷ lệ thôn, bản, tổ dân phố văn hóa đạt 78%, tỷ lệ cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn văn hóa đạt 26%.
Công tác “xã hội hóa” hoạt động văn hóa đã thu được những kết quả thiết thực, bước đầu huy động được nhiều nguồn lực trong xã hội. Xã hội hóa được coi là một trong những giải pháp quan trọng nhằm thu hút các nguồn lực xã hội, các thành phần kinh tế tham gia vào các hoạt động sáng tạo, cung cấp và phổ biến sản phẩm văn hóa, xây dựng cộng đồng trách nhiệm của toàn xã hội vào sự PTVH, tạo điều kiện cho các hoạt động văn hóa phát triển mạnh mẽ, rộng khắp, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Sự đa dạng hóa về các chủ thể văn hóa, sự chuyển đổi từ nguồn lực đơn tuyến của Nhà nước cho văn hóa đến sự nhập cuộc, hiệp lực và phối hợp đa chiều, đa thành phần từ nhiều chủ thể khác nhau trong xã hội cho các hoạt động văn hóa; thúc đẩy sự đa dạng trong loại hình, ý tưởng, xu hướng và phong cách của các biểu đạt văn hóa, đem đến cho công chúng những món ăn tinh thần phong phú hơn.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì đời sống văn hóa trong toàn vùng còn tồn tại một số hạn chế:
Một là, nhận thức về văn hóa của các ngành, các cấp có lúc còn cứng nhắc, áp đặt, giáo điều. Trên thực tế, vị thế của văn hóa còn thấp, chưa thực sự được đặt ngang hàng với các lĩnh vực khác trong phát triển toàn vùng.
Hai là, việc cụ thể hóa các thể chế văn hóa của các cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa còn chậm đổi mới, thiếu đồng bộ. Một số văn bản quản lý vừa được ban hành đã có những bất cập, đòi hỏi phải điều chỉnh, bổ sung.
Ba là, nguồn nhân lực cho sự PTVH trong toàn vùng còn yếu và thiếu các kỹ năng chuyên môn và quản lý. Chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý về văn hóa ở các cấp không theo kịp sự phát triển phong phú, đa dạng, và phức tạp của hoạt động văn hóa, dẫn tới lúng túng trong thực hiện chính sách, trong hướng dẫn tổ chức thực hiện, trong xử lý các vụ, việc vi phạm pháp luật và các chính sách về văn hóa.
Bốn là, đầu tư cho văn hóa chưa tương xứng với vai trò, vị trí của văn hóa trong phát triển. Hệ thống các thiết chế và cơ sở vật chất cho hoạt động văn hóa nhìn chung còn kém phát triển và trong tình trạng xuống cấp, chắp vá, thiếu đồng bộ, hiệu quả sử dụng còn thấp. Công tác quy hoạch, đầu tư phát triển thiết chế văn hóa trọng điểm còn chậm. Hệ thống thiết chế văn hóa vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa thực sự phù hợp với đặc điểm vùng, miền, với nhu cầu và nguyện vọng của người dân; nội dung hoạt động còn nghèo nàn, chưa thiết thực.
Năm là, chất lượng dịch vụ, sản phẩm văn hóa chưa cao; còn thiếu các thương hiệu văn hóa ở cấp độ vùng, quốc gia, khu vực và quốc tế, thiếu những sản phẩm văn hóa có chất lượng cao. Các sản phẩm văn hóa của ĐBSCL vẫn chưa thực sự sáng tạo, phong phú, chưa đáp ứng được nhu cầu của công chúng, năng lực cạnh tranh trên thị trường nội địa và thị trường quốc tế còn thấp.
Sáu là, bản sắc văn hóa dân tộc có nguy cơ bị phai nhạt. Nhiều dân tộc thiểu số trong vùng đã và đang mất dần những nét văn hóa đặc sắc trong tiến trình phát triển, hội nhập, đời sống văn hóa nghệ thuật nghèo nàn. Nhiều loại hình di sản văn hóa phi vật thể của đồng bào các dân tộc thiểu số chưa được chú trọng kiểm kê và lập hồ sơ bảo vệ.
Bảy là, môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục; tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan, tội phạm có chiều hướng gia tăng. Văn hóa ứng xử nơi công cộng, ở công sở, trong gia đình, nhà trường có nhiều bất cập. Sự suy thoái về tư tưởng, xuống cấp về đạo đức, tha hóa về lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, gây bức xúc trong xã hội, ảnh hưởng đến niềm tin của người dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ. Văn hóa gia đình chưa được chăm lo, củng cố. Văn hóa học đường có những biểu hiện đáng báo động. Các hành vi bạo lực, phản cảm, ứng xử thiếu văn hóa, sự xuống cấp về đạo đức, suy thoái về lối sống, sự băng hoại các giá trị văn hóa đang có chiều hướng gia tăng. Khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa vùng sâu, vùng xa với đô thị và trong các tầng lớp nhân dân chậm được rút ngắn.
2.2. Về con người
Đối với vùng ĐBSCL, nguồn lực con người có nhiều lợi thế, tiềm năng. Dân số toàn vùng năm 2023 là 17.463.300 người, chiếm 17,4% dân số cả nước. Dân số trong độ tuổi lao động là 9.547.900 người, chiếm 18,2% dân số trong độ tuổi lao động của cả nước. Tuy nhiên, đối với khu vực ĐBSCL, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong lực lượng lao động chiếm tỷ lệ thấp nhất so với các vùng khác trong cả nước (15,3%) . Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo giá hiện hành là 4.371.000đ/người/tháng, đứng thứ 03 cả nước; tỷ lệ hộ nghèo là 3,1% (tỷ lệ trung bình của cả nước là 3,4%); tổng số trường học phổ thông của toàn vùng là 4506 trường (cả nước: 26.247 trường); tổng số trường mẫu giáo là 1986 trường (cả nước: 15.422 trường); tổng số giảng viên bậc đại học là 6.953 giảng viên (cả nước: 76.576 giảng viên); tổng số giường bệnh của toàn khu vực là 49.590 giường, tổng số bác sĩ là 13.776 bác sĩ (cả nước: 88.772 bác sĩ); chỉ số phát triển con người của 13 tỉnh/thành vùng ĐBSCL đều đạt từ 0,66 điểm trở lên (cả nước: 0,737 điểm) . Qua 40 năm đổi mới, ĐBSCL đã vượt lên chính mình, từng bước “xóa trũng” về các phương diện giáo dục, y tế, đời sống của người dân được nâng cao về mọi mặt.
Thế nhưng, đối với nguồn lực con người ở vùng đất này không thể không đề cập đến tính cách văn hóa - đây được xem là yếu tố đặc trưng, có khả năng chuyển hóa thành nguồn lực của sự phát triển bền vững, và lịch sử đã chứng minh điều đó. Con người ĐBSCL với những nét tính cách văn hóa đặc trưng như trọng nghĩa, khinh tài, dám làm - dám chịu, năng động, sáng tạo, lạc quan, điệu nghệ đã khai phá và xây dựng vùng đất phát triển như hiện nay.
Bên cạnh những thành tựu nổi bật về phát triển con người trong gần 40 năm qua, ĐBSCL cũng đững trước những khó khăn, hạn chế trong phát triển con người, có đôi khi trở thành rào cản của sự phát triển.
Một là, các chỉ số về phát triển con người ở ĐBSCL vẫn còn ở mức trung bình so với cả nước, chưa tương xứng với vai trò là vùng kinh tế sôi động, vùng văn hóa giàu bản sắc, cụ thể như chỉ số về giáo dục, chăm sóc y tế.
Hai là, nhiều giá trị truyền thống tốt đẹp trong tính cách con người vùng ĐBSCL bị mai một, biến đổi trước sự tác động của lối sống thực dụng, tư duy duy kinh tế, chủ nghĩa cá nhân.
Ba là, dân số vùng ĐBSCL đứng trước nguy cơ già hóa, xu hướng dịch chuyển lao động, vấn đề xuất cư, những điều này làm ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nhân lực của vùng trong giai đoạn hiện tại và tương lai.
3. Bài học kinh nghiệm qua 40 năm đổi mới trên lĩnh vực văn hóa, con người vùng đồng bằng sông Cửu Long
Một là, cần xác định nhiệm vụ xây dựng văn hoá đối với các thành viên trong hệ thống chính trị, đặc biệt là vai trò của chính quyền các cấp, trách nhiệm của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Nếu có thể, nên thành lập Ban chỉ đạo xây dựng, phát triển văn hoá, con người trực thuộc các cấp uỷ để tham mưu, giúp đỡ cho Đảng lãnh đạo, chỉ đạo lĩnh vực văn hoá trong Đảng bộ. Đối với hệ thống chính quyền cũng cần phân công cụ thể cho từng ban, ngành, đơn vị trong việc xây dựng văn hoá, con người của quốc gia và địa phương.
Hai là, coi trọng xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hoá lành mạnh trong xã hội, trước hết là trong hệ thống chính trị và trong từng cá nhân, gia đình, khóm ấp đơn vị, tổ chức cơ sở đồng thời khắc phục các tệ nạn xã hội. Cần xác định đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên, vừa cấp bách, vừa cơ bản, lâu dài. Nâng cao chất lượng và hiệu quả xây dựng con người Việt Nam theo các đức tính: lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, bao dung, trọng nghĩa, cần cù sáng tạo trong lao động, tế nhị trong cư xử, giản dị trong lối sống…Giáo dục chủ nghĩa yêu nước, giáo dục về chủ nghĩa xã hội, làm cho mọi người thấm nhuần truyền thống lịch sử và cách mạng của dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới.
Ba là, chú trọng xây dựng văn hoá ở cơ sở, nhất là cộng đồng dân cư, xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh, tốt đẹp, phong phú. Thiết chế văn hóa thông tin cơ sở là một bộ phận rất quan trọng trong thiết chế văn hóa thông tin của cả nước, là công cụ tuyên truyền, vận động sắc bén, sâu rộng tại cơ sở của Đảng, Nhà nước, là nơi hưởng thụ, sáng tạo, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc Việt Nam. Do vậy, các chủ trương, chính sách phát triển bền vững vùng cần quan tâm đến việc PTVH cơ sở, trong đó chú trọng bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao năng lực cho cán bộ phụ trách văn hóa ở cấp cơ sở (cấp xã, thôn, ấp và tương đương). Đồng thời, trong các hoạt động định hướng phát huy văn hóa cơ sở, cần chú ý đến thực hành văn hóa hằng ngày, trong đó, đặc biệt chú trọng thực hành văn hóa mang bản sắc của cộng đồng các dân tộc ở ĐBSCL . Cụ thể là, các thực hành văn hóa đờn ca tài tử, các hoạt động nghi lễ đền, miếu, các thực hành nghệ thuật và nghệ thuật Phật giáo Nam tông của người Khmer, các lễ hội, tín ngưỡng và phong tục của người Việt. Đẩy mạnh phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá và bằng nhiều nội dung, hình thức sinh hoạt sinh động để nâng chất các mô hình văn hoá, tạo ra những nét đặc trưng về lối sống, nếp sống và văn minh đô thị, vừa bảo đảm tiêu chí các mô hình, vừa có nhiều nội dung mới, phong phú, để thu hút quần chúng tham gia. Tăng cường các hình thức tuyên truyền cổ động, phát triển các hoạt động văn hoá, văn nghệ đa dạng về hình thức, phong phú và lành mạnh về nội dung…, tác động nâng lên ý thức cộng đồng tự quản của nhân dân ở địa bàn dân cư.
Bốn là, bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa đặc sắc của vùng ĐBSCL. Cần thực hiện tốt chính sách giữ gìn và phát huy giá trị các di sản văn hóa đã được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), được quốc gia, được tỉnh ghi danh, như nghệ thuật đờn ca tài tử, lễ hội cúng biển Mỹ Long, lễ Vu lan thắng hội (lễ hội cúng ông Bổn Cầu Kè), các chùa Khmer Nam tông, nghệ thuật Chầm Riêng Chà Pây, lễ hội Ok Om Bok, Chol Chnam Thmay và lễ hội Sen Đôn ta, lễ hội cúng Neak Tà, nghệ thuật sân khấu Rô băm, lễ hội thờ Ngũ vị nương nương và lễ hội thờ Thiên Hậu, các ngôi nhà cổ ở Đồng Tháp, Cần Thơ; chợ nổi Cái Răng và các chợ nổi khác, lễ Nghinh Ông và tục thờ cúng Quan Âm Nam Hải... Đối với các loại hình nghệ thuật có lịch sử hình thành và phát triển gắn với đặc thù vùng đất Nam Bộ, những sáng tạo văn hóa của người dân ĐBSCL, như nghệ thuật sân khấu Dù kê của người Khmer Nam Bộ, Nhà nước cần tiếp tục có chính sách ưu tiên xây dựng hồ sơ di sản trình UNESCO công nhận di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Đây vừa là hình thức bảo tồn di sản văn hóa đặc sắc vùng, vừa quảng bá, phát huy giá trị di sản trong phát triển bền vững vùng gắn kết với du lịch địa phương.
Năm là, xây dựng văn hóa ứng xử hài hòa với môi trường. Để phát triển bền vững cần nâng cao ý thức bảo vệ môi trường sinh thái cho chính quyền và cộng đồng người dân ở ĐBSCL. Vì vậy, cần nhanh chóng khắc phục tình trạng suy thoái, đồng thời với bảo vệ, cải thiện và phục hồi, tái tạo tài nguyên thiên nhiên và môi trường sống, bảo vệ các loại động vật, thực vật đặc trưng của sông nước, biển cả ở ĐBSCL. Các chủ trương, chính sách phát triển bền vững vùng cần phát huy vai trò của tri thức bản địa trong việc nâng cao hiệu quả tác động của văn hóa đối với bảo vệ môi trường. Sự kết hợp giữa tri thức bản địa và tri thức khoa học được xem là giải pháp hữu hiệu trong xây dựng chiến lược thích ứng biến đổi khí hậu, bởi tri thức bản địa vốn là những kinh nghiệm tích lũy từ lâu đời, được người dân đúc rút và thực hành tại một vùng nhất định. Vì thế, nó có thể là những biện pháp kỹ thuật, kiến thức ứng phó hữu ích cho chính cộng đồng đối với vấn đề biến đổi khí hậu diễn ra tại địa phương.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Chỉ đạo Tổng điều tra dân số và nhà ở Trung ương: Kết quả tổng điều tra dân số và nhà ở thời điểm 0 giờ ngày 1/4/2019, Nxb. Thống kê, H, 2019.
2. Ban Thường vụ Tỉnh ủy Cà Mau, Kế hoạch số 213-KH/TU, ngày 13/01/2024 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về việc tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
3. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tập 1.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H, 2021, tập 2.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, H.2011, tập 3.
6. Hồ Bá Thâm, Sự phát triển văn hóa đồng bộ và tương xứng với phát triển kinh tế tạo ra sự phát triển bền vững, Nxb Phương Đông, 2006.
7. Tỉnh ủy An Giang, Chương trình hành động 33-CTr/TU, ngày 21.5.2015 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh An Giang về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”
8. Tỉnh ủy Bến Tre, Nghị quyết số 05-NQ/TU của Tỉnh ủy về xây dựng con người Bến Tre phát triển toàn diện; gia đình hạnh phúc, tiến bộ.
9. Thành ủy Cần Thơ, Chương trình số 52-CTr/TU ngày 15.8.2014 triển khai, thực hiện Nghị quyết 33 Nghị quyết số 33-NQ/TW ngày 9.6.2014 của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”
10. Tỉnh ủy Đồng Tháp, Nghị quyết số 06-NQ/TU của Tỉnh ủy về xây dựng văn hóa và con người Đồng Tháp nghĩa tình, năng động, sáng tạo
11. Tỉnh ủy Kiên Giang, Chương trình hành động số 53-CTr/TU, ngày 27/8/2014 của Tỉnh ủy về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước
12. Tỉnh ủy Long An, Nghị quyết số 51-NQ/TU của Tỉnh ủy về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Long An đến năm 2030 và các năm tiếp theo”
13. Tổng Cục Thống kê, Niên giám thống kê 2023, Nxb. Thống kê, H.2024
14. VCCI - Fulbright: Báo cáo kinh tế thường niên ĐBSCL 2020.