Dòng sông Quan Họ

06/12/2020 22:39

Theo dõi trên

Đã có khá nhiều thơ ca của các nhà thơ, nhạc sĩ có tên tuổi ca ngợi dòng sông quê tôi, “dòng sông quan họ”, dòng sông mà từng ngọn sóng và những tia nắng lấp lánh trên sông vẫn mang điệu dân ca. Đó là dòng sông Cầu chạy qua tỉnh Bắc Ninh, người ta bảo là dòng sông quan họ. Dòng sông từng đi vào lịch sử, đi vào thơ ca và nỗi nhớ của những người xa quê.

Ở địa phận sông Cầu chảy qua tỉnh Bắc Ninh- Bắc Giang, dài 69km và là gianh giới giữa hai tỉnh, nhưng có điều đặc biệt, dọc hai bờ là 49 làng quan họ gốc (Bắc Ninh: 44 làng, Bắc Giang:5 làng) ở các vùng khác trên đất Bắc Ninh không có làng quan họ, một điều đặc biệt đến nay vẫn chưa có lời giải? Sông Cầu còn có tên là sông Như Nguyệt; Thị Cầu; Nguyệt Đức (xa xưa còn có tên là sông Vũ Bình). Sông Cầu bắt nguồn từ phía Nam đỉnh Phia Bi Ooc (cao 1.578m) của dãy núi Văn Ôn trong địa phận xã Phương Viên huyện Chợ Đồn tỉnh Bắc Kạn, người dân vùng này nói rằng dãy núi nơi sông bắt đầu chảy gọi là Tam Tao (tiếng Tày gọi là Tham Thẩu).
 

Từ đây sông chảy ngoằn nghèo giữa hai dãy núi vòng cung Ngân Sơn và Sông Gâm. Lưu vực sông lúc này ở độ cao lớn nên có nhiều thác ghềnh chảy qua  núi non hùng vĩ, sông chẻ núi mà đi, uốn khúc quanh co, tới địa phận xã Dương Phong, huyện Bạch Thông rồi đổi hướng Tây Tây Nam- Đông Đông Bắc qua thị xã Bắc Kạn; rồi lại đổi hướng để chảy theo hướng Đông Bắc- Tây Nam về Chợ Mới nhận một chi lưu nhỏ rồi tới địa phận xã Cao Ngạn, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên nhận tiếp một chi lưu phía tả ngạn tới xã Sơn Cẩm, huyện Phú Lương nhận tiếp một chi lưu phía hữu ngạn là sông Đu rồi chảy qua phía đông thành phố Thái Nguyên đến Phú Bình lại nhận tiếp một chi lưu là sông Công.
 
Tới xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa (tỉnh Bắc Giang) và xã Việt Long (huyện Sóc Sơn – Hà Nội) nhận một tiếp một chi lưu sông Cà Lồ rồi chảy tiếp về phía đông qua ranh giới huyện Việt Yên (Bắc Giang) và Yên Phong (Bắc Ninh) nhận hai chi lưu nhỏ là sông Ngũ Huyện Khê và sông Tiêu Tương.
 
Từ đây dòng chảy hiền hòa không còn xối xả như ở Bắc Kạn và Thái Nguyên vì thế trở nên đẹp lạ lùng, nước chảy “lơ thơ”, nướcxanh soi bóng trăng đêm lóng lánh, có lẽ vì thế nên mới có tên sông “Như Nguyệt”. Cũng từ đây, hai bờ bên dòng Như Nguyệt có các làn điệu dân ca quan họ “tuyệt tác” của liền anh, liền chị trong các làng quan họ cổ, nay trở thành Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Mật độ làng quan họ gốc chỉ tập trung ở sát sông Như Nguyệt thuộc ba địa danh huyện Yên Phong, Tiên Du (Bắc Ninh) và Việt Yên (Bắc Giang).
 
Khi đến huyện Quế Võ (Bắc Ninh) sông Cầu hợp lưu với sông Thương (Yên Dũng – Bắc Giang) lại không có làng quan họ nào, điều lạ là như thế mà nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu nhưng vẫn chưa có lời giải. Sông Cầu hợp với sông Thương tại ngã ba Lác ranh giới 3 tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh và Phả Lại (huyện Chí Linh – Hải Dương) để đổ ra sông Thái Bình. Nơi đây chính là Lục Đầu Giang: sáu con sông hợp lại, thực ra là 5 con sông đổ về một mối sông Thái Bình để chảy ra biển (Sông Cầu, sông Thương, sông Lục Nam, sông Kinh Thầy, sông Đuống).
 
Trở về với dòng sông quan họ, đoạn sông Cầu chảy qua địa phận Bắc Ninh, Bắc Giang (dài 69km) so với tổng chiều dài của sông 289 km nhưng lại được tụ “khí thiêng”. Phải chăng những con suối, chi lưu được cung cấp nước từ đầu nguồn tụ nạp những tinh hoa của từng vùng đất sông chảy qua tới địa phận này được “ngưng tụ” và tỏa sắc hương của “hoa rừng Việt Bắc”.
 
Bắt đầu từ nơi đây dòng sông quan họ đã ghi lại những dấu ấn lịch sử hào hùng của dân tộc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền độc lập tự do của đất nước. Ngay từ điểm đầu sông Cầu ở địa phận Bắc Ninh còn ghi mãi chiến công hào hùng của dân tộc với bản tuyên ngôn độc lập đầu tiên “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt cùng quân dân Đại Việt đánh tan 30 vạn quân Tống vào năm 1077.
 
Đền Xà (thuộc huyện Yên Phong, Bắc Ninh) nơi ngã ba sông hợp lưu giữa sông Cà Lồ và sông Cầu là chiến tuyến bên dòng sông Như Nguyệt năm 1077. Bài thơ  “Nam quốc sơn hà: Sông núi nước Nam, vua Nam ở - Rành rành định phận tại sách trời - Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm - Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời” được phát ra trong một đêm làm giặc Tống đóng quân bên bờ Bắc (huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang) bạt vía kinh hồn. Quân dân Đại Việt thừa thắng tiến công làm cho Đại Nguyên soái Quách Quỳ tướng của quân Tống phải cởi cả áo giáp trà trộn với binh lính chạy về nước mới thoát được thân; trận đánh ấy làm vỡ tan mộng xâm lược Đại Việt của nước Tống.
 
Sông Cầu có tự bao giờ? Cũng khó xác định nhưng sông Cầu là cả niềm tự hào làm nên nét văn hóa độc đáo của vùng đất 5 tỉnh thành có dòng sông chảy qua. Chắc chắn “khí thiêng của hoa rừng Việt Bắc” đã ngưng tụ từ lâu đời trên đoạn dòng sông quan họ làm cho vùng quê Kinh Bắc - Thăng Long nổi tiếng ngàn năm văn hiến.
 
Truyền thuyết Kinh Dương Vương lập nước Xích Quỷ năm Nhâm Tuất 2879 trước Công nguyên (Hiện đang được thờ tại thôn Á Lữ, Đại Đồng Thành, huyện Thuận Thành, Bắc Ninh). Kinh Dương Vương truyền ngôi cho Lạc Long Quân, rồi Lạc Long Quân truyền ngôi cho con trai cả là Vua Hùng truyền 18 đời. Đây chính là Thủy tổ của nhóm Bách Việt “Con rồng cháu tiên”. Cũng tại vùng đất Thuận Thành có kinh đô Luy Lâu nơi đóng đô của nữ tướng Bà Trưng đứng lên khởi nghĩa đánh tan quân Nam Hán vào mùa xuân năm 40 sau công nguyên, đây cũng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa, tôn giáo của nước ta thời ấy.
 
Trải qua gần nghìn năm bị đô hộ, đến khi Ngô Quyền giành độc lập năm 938 nhưng đất nước vẫn chưa được thái bình, trải qua bao thăng trầm, các cuộc loạn lạc, tranh giành ngôi Chúa của Nhà Đinh, Nhà Tiền Lê vẫn là tiềm ẩn cho phương Bắc trở lại đô hộ xâm lược nước Đại Việt. Phải đến năm 1010, Lý Công Uẩn người con ưu tú xứ Kinh Bắc (làng Đình Bảng, thị xã Từ Sơn) lên ngôi vua dời đô từ Hoa Lư - Ninh Bình về Thăng Long (Hà Nội), Đại Việt ta mới mở ra một kỷ nguyên mới, thời đại hưng thịnh của đất nước.
 
Điểm cuối của dòng sông quan họ là khu vực Lục Đầu Giang, theo quan niệm xưa, đây là nơi hội tụ của bốn dòng Đức lớn trong vũ trụ bởi bốn dòng sông lớn đổ về đây đều mang tên chữ “Đức”: Sông Lục nam (có tên Minh Đức), sông Thương (có tên Nhật Đức), sông Cầu (có tên Nguyệt Đức), sông Đuống (có tên Thiên Đức) kết hợp với sông Kinh Thầy (tỉnh Hải Dương có tên Thủ Chân) qua dòng chính Thái Bình đổ ra Biển Đông tạo thành một vùng sông nước mênh mông Lục Đầu Giang. Điều này đem lại sự bình yên, thịnh vượng cho nhân dân “nhân tâm trong thiên hạ được thu về một mối”.
 
Giữa Lục Đầu Giang có một bãi nổi gọi là “Đại Than” (Bình Than) thuộc địa phận xã Cao Đức (huyện Gia Bình, Bắc Ninh). Về địa lý phong thủy dân gian cho rằng Lục Đầu Giang được xem như “Lục Long tranh châu” nghĩa là 6 con rồng (6 con sông) tranh một viên ngọc quý (bãi nổi Đại Than). Theo “Bắc Ninh địa chí” viết năm Tự Đức 29 (năm 1876) thì Lục Đầu Giang còn có tên gọi khác là: Sông Kênh Than, Bình Than, Bàn Than, Đại Than, Phù Lan, Bình Giang, Phao, Triền Dương. Nhưng cái tên Lục Đầu Giang  vẫn mãi mãi ghi vào lịch sử.
 
Bãi nổi “Đại Than” hay “Bình Than” giữa Lục Đầu Giang còn có tên gọi bãi “Nguyệt Bàn” gắn liền với chiến công ba lần đánh thắng giặc Nguyên Mông xâm lược Đại Việt của quân và dân triều Trần. Năm 1282, trước thế mạnh của quân Nguyên tại bãi Đại Than giữa Lục Đầu Giang diễn ra Hội nghị lịch sử của các Vương hầu, tướng lĩnh nhà Trần bàn kế sách chống giặc Nguyên Mông.
 
Tại hội nghị này, vua tôi nhà Trần đã đưa ra những quyết sách “quyết đánh” để toàn dân, toàn quân Đại Việt khắc lên tay hai chữ “Sát thát” đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông lần thứ hai, ghi chiến công lẫy lừng vào trang sử vẻ vang vì độc lập tự do của dân tộc. Từ đó sử sách ghi lại bãi “Đại Than” gọi là “Bến Bình Than”  hay “Bãi Nguyệt Bàn”. “Bãi Nguyệt Bàn” chính là trung tâm của hội nghị Bình Than năm nào, hội nghị được bàn bạc vào ban đêm và ở giữa dòng sông để giữ bí mật.
 
Cũng tại Hội nghị này, hình ảnh bóp nát quả cam của chàng thiếu niên Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản được sinh ra từ quê hương Trang Liệt - Đông Ngàn (nay là thị xã Từ Sơn) con trai của Hoài Đức Vương Trần Bà Liệt đã không được vua cho vào dự hội nghị bàn kế đánh giặc vì cho là còn nhỏ tuổi. Chàng đã chiêu tập một đội quân thiếu niên để huấn luyện đánh trận.
 
Đội quân thiếu niên với lá cờ thêu 6 chữ vàng “Phá cường địch báo hoàng ân” không ngừng miệt mài tập luyện dưới sự chỉ huy của Trần Quốc Toản chờ ngày ra trận với quyết tâm đánh tan quân xâm lược, để dân chúng thoát khỏi cảnh lầm than mà kẻ thù ngang ngược đã gây ra. Chí khí hiên ngang ấy đã được Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn phát hiện và nuôi dưỡng.
 
Ông quyết định cho đội quân của Trần Quốc Toản giữ toàn bộ trận tuyến phía Bắc Bình Than, dọc dải sông Cầu để hỗ trợ cho thủy quân nhà Trần ở Lục Đầu Giang. Lá cờ “Phá cường địch báo hoàng ân” luôn tung bay phấp phới trên dòng sông quan họ trong từng trận đánh lớn nhỏ của quân và dân nhà Trần.
 
Trận đánh mở đầu, đội quân thiếu nhi của Trần Quốc Toản dụ được tướng Toa Đô của giặc về bến Chương Dương để đội quân của tướng Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật hạ gục góp phần lớn trong trận đánh quyết định vào tháng 5 năm 1285 (tháng tư năm Ất Dậu) của Hưng Đạo Vương đánh tan 50 vạn đại thủy quân của Thoát Hoan và Lý Hằng trên Lục Đầu Giang.
 
Trấn Nam Vương Thái tử Thoát Hoan của giặc Nguyên Mông chỉ còn lại 5 vạn tàn quân tháo chạy về nước. Đặc biệt tại Lục Đầu Giang quân và dân nhà Trần đã có trận thắng lớn vào tháng 2 năm 1288 hạ gục đội thủy quân của Thoát Hoan và Ô Mã Nhi trong cuộc xâm lược lần thứ ba của giặc Nguyên Mông; từ trận thắng này buộc các chiến thuyền thủy chiến được coi là mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ của giặc Nguyên Mông phải rút chạy ra biển để quân dân Đại Việt có chiến thắng trên sông Bạch Đằng lẫy lừng trong lịch sử.
 
Những trang sử hào hùng của dân tộc trong công cuộc bảo vệ chủ quyền của đất nước diễn ra trên sông Cầu làm cho sông Cầu đẹp mãi trong sử thi. Sông Cầu trong tương lai là một tiềm năng du lịch hấp dẫn với hai tỉnh Bắc Ninh - Bắc Giang nếu được chú trọng đầu tư. Sông Cầu vừa ra khỏi nơi phát nguyên ở núi rừng Bắc Kạn gặp ngay một địa danh của mảnh đất bình yên Thái Nguyên, thủ đô kháng chiến an toàn khu Việt Bắc trong kháng chiến chống Pháp.
 
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng đi qua sông Cầu khu vực đầu nguồn năm 1945 để từ Pác Pó, Cao Bằng về Tân Trào lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng tháng 8/1945 thành công khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trong kháng chiến Bác cùng Trung ương Đảng làm việc dưới những tán lá, rừng cây của núi rừng Việt Bắc, dùng nước chi lưu của sông Cầu để sinh hoạt. Thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến kiểm tra lũ lụt trên đê sông Cầu ở xã Việt Thống (huyện Quế Võ, Bắc Ninh) ngày 20/7/1960.
 
 Đặc biệt là những địa danh trong lịch sử Đền Xà, Lục Đầu Giang cùng với những địa danh sơn thủy hữu tình dọc đôi bờ dòng sông quan họ khá hấp dẫn để thu hút du lịch: Rượu làng Vân (Thổ Hà - Việt Yên - Bắc Giang) phía bờ Bắc và Đại Lâm (Bắc Ninh) phía bờ Nam nổi tiếng được coi là “Vân hương mỹ tửu”.Thổ Hà còn là làng gốm cổ.
 
Đại Lâm là làng kháng chiến chống Pháp nổi tiếng đã từng bắn rơi hai chiếc máy bay bà già của Pháp khi đi thị sát chiến trường trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm 1954. Đền Bà Chúa Kho giáp với đồi Pháo Thủ (thành phố Bắc Ninh) cũng là điểm thu hút khách tham quan thật hấp dẫn. Làng Tiến sĩ Kim Đôi (thành phố Bắc Ninh) nằm ngay sát bờ sông Cầu cách cầu Đáp Cầu chỉ hơn 1km (làng có 25 vị đỗ tiến sĩ trong các triều đại phong kiến trước đây).
 
Xuôi về phía Nam, bên Bắc Giang có dãy Phượng Hoàng hay còn gọi Biền Sơn (Nham Biền) thuộc huyện Yên Dũng (Bắc Giang) với 99 ngọn núi lớn nhỏ thật trùng điệp gắn với câu chuyện dân gian “Cao Biền dậy non”. Bên Bắc Ninh cũng có dải Nam Sơn xanh mướt những đồi thông, nơi có cột đá Chùa Dạm là bảo vật quốc gia.
 
Tiếp đến là xã Việt Thống (huyện Quế Võ, Bắc Ninh), nơi được đón Bác Hồ về kiểm tra lũ lụt trên đê sông Cầu năm 1960. Gần Lục Đầu Giang là làng gốm cổ Phù Lãng (huyện Quế Võ, Bắc Ninh) phía Phả Lại (Hải Dương) có đền thờ Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn và đền thờ Đại thần quan Tư Đồ Nguyễn Trãi.
 
Còn chính Lục Đầu Giang ngoài vùng sông nước mênh mông ghi những chiến công hiển hách của quân và dân nhà Trần; hiện nay có cây cầu “Bình Than” mới được bắc qua hai bờ Nam, Bắc trên dòng sông Thiên Đức; có đền Tam Phủ thờ ba khí thiêng của vạn vật trong vũ trụ: Trời - Đất - Nước. Trong tương lai tại bãi “Nguyệt bàn” có dự án khu du lịch “Rồng vàng” với một khách sạn hình con rồng cao nhất Đông Nam Á…
 
Tiềm năng du lịch sông Cầu của cả 4 tỉnh Bắc Kạn, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Bắc Giang và thủ đô Hà Nội là rất lớn, đặc biệt hai tỉnh Bắc Ninh – Bắc Giang có dòng sông quan họ dài 69km. Du khách có thể vào các làng quan họ gốc dọc hai bờ sông để khám phá Di sản thế giới và cùng ca câu quan họ thắm đượm trữ tình. Chỉ sợ du khách đến dòng sông quan họ lại chẳng muốn về, dùng dằng với “Người ơi, người ở đừng về” của tình người quan họ.
 
Nguyễn Công Hảo

Bạn đang đọc bài viết "Dòng sông Quan Họ" tại chuyên mục Phương Nam. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.