Đề nghị quan tâm đầu tư xây dựng Bia ghi công tại Suối Máu

25/06/2017 16:47

Theo dõi trên

Cứ mỗi lần có dịp đi qua xã Hồng Tiến (huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên Huế), đập vào mắt tôi là dòng chữ “Suối Máu” nằm e ấp bên mé cầu với lấm lem bùn đất. Nhìn xuống dòng “Suối Máu” trong xanh hiền hòa chảy, người dân hàng ngày đến suối tắm rửa và lấy nước phục vụ sinh hoạt, lòng tôi trào dâng xúc động...



Cầu sau khi được BQL đường bộ nâng cấp, sửa chữa đã xóa bỏ cái tên “Suối Máu”, thay thế vào đó là cầu “Hồng Tiến”.

Để biết lịch sử “Suối Máu” tôi đi hỏi nhiều người dân nhưng mỗi người kể một phách. Người thì nói đó là máu của bộ đội ta, người thì cho là của địch còn có người lại bảo là máu đổ của cả hai phía.

Tìm gặp ông Nguyễn Văn Tích (79 tuổi), thôn 3, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Hồng Tiến. Ông Tích nói: "Nhà tôi ở cạnh con suối nên sau trận đánh vào tháng 4/1972 tại Khe Nghệ, tôi được nghe kể là khi phát hiện một lực lượng lớn quân giặc đang hành quân dưới con suối, quân ta mai phục hai bên và dùng súng bắn, mất tín hiệu, bọn chỉ huy địch tưởng quân mình đã bị tiêu diệt nên cho máy bay thả bom nhằm tiêu diệt ta, vì vậy lực lượng cả hai bên đều có hy sinh nhưng quân ta hy sinh ít hơn...".

Còn ông Vương Quốc Tre, 1 nhân chứng lịch sử, 1 cựu chiến binh, thôn 4 lại kể: "Vào tháng 2/1972, địch thực hiện một trận càn lớn với 3 tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 3 Bộ binh - Sư đoàn 1 quân đội Sài Gòn do Trung tá Mão chỉ huy. Địch chia làm 3 mũi, một mũi càn lên theo đường 12, hai mũi còn lại đi đường rừng. Cả 3 mũi đi song song nhau, cách nhau chỉ vài km để hỗ trợ lẫn nhau. Sau khi càn lên đến đèo Kim Quy và Tà Lương, lực lượng ta tránh địch, chúng không gặp ta. Cuộc hành quân thất bại, chúng liền hợp quân rút về. Lúc này, lực lượng ta gồm một đại đội của Trung đoàn 6 phục kích ở điểm cao 410, một đại đội của Trung đoàn 2 (thuộc Bộ) phục kích ở mỏm đồi đối diện để đánh xe tăng và thiết giáp của địch theo đường 12 sẽ lên hỗ trợ cho các cánh quân nếu xảy ra sự biến. Rút về đến cầu Khe Nghệ, quân địch dừng lại để tắm rửa, lau chùi súng, rửa xe trước khi về đơn vị. Nhận thấy thời cơ bất ngờ, hai đơn vị với khoảng 60 người quyết định chớp thời cơ đánh thẳng vào đội hình địch, làm địch bị thương rồi rút nhanh. Bị đánh bất ngờ quân địch rối loạn, lồng lộn, thiệt hại nặng giữa vòng vây, ta lại hủy được bộ phận thông tin của địch. Bị mất liên lạc, Sở chỉ huy của chúng nhầm tưởng là đã bị bộ đội chủ lực ta với lực lượng rất lớn đánh trọn, liền cho phi pháo và máy bay ném bom vùi trận địa, hòng tiêu diệt lực lượng chủ lực của ta. Nhưng chúng đã nhầm, Trung đoàn 3 của chúng đã bị xóa sổ vì bom đạn của chúng. Nghe nhân dân nói lại là chỉ còn mỗi 2 lính quân đội Sài Gòn xuôi theo dòng Khe Nghệ sống sót trở về. 

Ông Trần Lưu Chữ, nguyên Trung đoàn trưởng Trung đoàn 6 thuộc Tư lệnh quân khu IV nhớ về hình ảnh những người đồng đội cùng tham gia chiến đấu bảo vệ từng gang đất mẹ khẳng định: "Những hồi tưởng của ông Tích, ông Tre là hoàn toàn không có. Ông Chữ kể lại: "Những ngày chiến đấu ác liệt ở các căn cứ từ dọc đường 12 đổ về, những người lính Sư đoàn 6 còn trẻ măng, sức vóc cường tráng với khí thế hào hùng. Tôi nói với các đồng đội vào chiến đấu hết sức bình tĩnh và dũng cảm, có hy sinh thì cũng cam lòng, bởi đó là niềm vinh dự khi phụng sự Tổ quốc. Khi vào trận đánh, địch bị ta bao vây dồn vào "Cánh cửa thép" Cù Mông, bị thiệt hại nặng cả người và của, lực lượng của Trung đoàn 1 quân đội Sài Gòn co về Động Tranh. Vì bị uy hiếp, buộc chúng phải đưa chiến đoàn thiết giáp đến bố trí chốt ở các mỏm nhô ra của cao điểm Cù Mông nhằm án ngự đường 12, đẩy lực lượng ta ra xa, tăng cường bảo vệ quân địch ở Động Tranh. Bộ Tư lệnh Quân khu IV giao nhiệm vụ cho Trung đoàn 6: Phải nhanh chóng tiêu diệt chiến đoàn thiết giáp địch ở Cù Mông. Muốn tấn công tiêu diệt chúng, không thể đánh trực diện, Trung đoàn phải tạo thế nghi binh đánh lừa địch để kéo địch ra ngoài công sự, kết hợp phục kích, chặn đầu, khóa đuôi, khi thời cơ có lợi dùng hỏa lực tiêu diệt. 8h ngày 5/4/1972, lực lượng nghi binh dùng hỏa lực bắn chế áp vào Động Tranh. Đồng thời, các máy PRC25 của bộ phận thông tin liên tục phát các "mệnh lệnh" như: Chỉ thị mục tiêu, bố trí lực lượng, thời gian tiến công vào Động Tranh,... để đánh lừa địch. Thông tin trên sóng vô tuyến điện đã làm địch hốt hoảng nhầm tưởng một lực lượng lớn chủ lực của ta đang tổ chức tiến công Động Tranh, liền lệnh cho chiến đoàn thiết giáp cơ động theo trục đường 12 về cứu nguy cho Động Tranh. 9h ngày 5/4/1972, khi đoàn xe vừa lọt vào giữa trận địa phục kích, Tiểu đoàn 6 phát hỏa chặn đầu. Khối bộc phá 50kg đặt giữa đường 12 nổ long trời lở đất hất tung chiếc M41 đi đầu lật úp, đồng thời tạo một hố sâu giữa mặt đường. Đoàn xe khựng lại trong chốc lát, rồi tập trung toàn bộ hỏa lực bắn mạnh vào đội hình Tiểu đoàn 6 hòng tiếp tục tiến quân.

Cùng lúc đó, Tiểu đoàn 1 nổ súng khóa đuôi. Ngay loạt đạn đầu, B40 của ta bắn cháy cả 3 chiếc xe đi cuối. Quân ta thừa thắng xông lên, Đại đội 1 bắt sống 3 xe M113. Đồng chí Trọng, Đại đội trưởng Đại đội 1 nhanh trí lệnh cho các chiến sĩ nhảy lên các nóc xe bị bắt, sử dụng súng 12,8 ly hạ nòng bắn quét vào đội hình địch. Chưa đầy 30 phút, Tiểu đoàn 1 đã làm chủ đoạn quyết chiến điểm, bắt sống thêm 2 chiếc M113. Bộ phận đi đầu của địch cố bám vệ đường, bắn như vãi đạn vào đội hình Tiểu đoàn 6 hòng mở lối thoát, nhưng không thể vượt qua. Lúc này, Tiểu đoàn 1 đã lập tức phát triển lực lượng theo dọc đường 12, hợp quân với Tiểu đoàn 6 tiêu diệt địch, làm chủ trận địa. Sau gần 45 phút nổ súng, trận chiến đấu kết thúc thắng lợi. Trung đoàn đã tiêu diệt 19 xe tăng thiết giáp, bắt sống 5 chiếc, diệt hơn 100 tên địch, bắt hơn 80 tù binh, thu toàn bộ vũ khí trang bị. Từ đó, Khe Nghệ được nhân dân gọi là “Suối Máu”. Nơi đây, từng là nơi đẫm máu của quân địch và chiến thắng to lớn của bộ đội ta.

 


Ông Nguyễn Văn Tích (79 tuổi), thôn 3, nguyên Bí thư Đảng ủy xã Hồng Tiến hồi tưởng lại nguồn gốc cái tên “Suối Máu”.

Bây giờ mỗi khi có điều kiện, cựu chiến binh Trần Lưu Chữ vẫn lặng lẽ trở lại nơi mảnh đất này, đứng trên cầu “Suối máu” tưởng nhớ về những trận đánh oanh liệt nơi đây. Nhưng “Suối máu” bây giờ ai còn nhớ khi câu chuyện lịch sử nổi tiếng một thời đã chưa đầy nửa thế kỷ đi qua dần bị người dân quên lãng. Hiện cầu “Suối máu” sau khi được Ban Quản lý đường bộ nâng cấp, sửa chữa cũng xóa bỏ luôn cái tên cầu “Suối máu”, thế vào đó là cầu “Hồng Tiến”. Ngay cả cán bộ UBND xã, huyện, các thế hệ thầy giáo, cô giáo cũng không ai biết chính xác lịch sử “Suối máu”.
 


Dọc tuyến đường QL 49, cái tên Suối Máu được gắn trên mốc lộ giới

Thiết nghĩ, lịch sử địa phương là một bộ phận cấu thành lịch sử dân tộc. Cho nên xã nhà cần phải đưa sự kiện dòng Suối máu vào trang sử địa phương. Từ đó, các trường học ở trên địa bàn xã, huyện tìm hiểu, đưa địa danh “Suối máu” vào trong các giờ dạy học lịch sử địa phương để các em ghi nhớ sâu sắc các sự kiện, địa danh nổi tiếng và kể tiếp trang sử vẻ vang trên quê hương mình.

Ngoài ra, đề nghị UBND huyện, tỉnh quan tâm đầu tư xây dựng Bia ghi công tại Suối máu. Đây là một việc làm rất có ý nghĩa, thể hiện lòng biết ơn, tri ân các anh hùng và cũng là dấu tích để cho thế hệ nối tiếp thế hệ biết được chiến công của quân ta trong chiến dịch “Đường 12 quyết thắng” năm xưa.
 
Bùi Ngọc Ánh

Bạn đang đọc bài viết "Đề nghị quan tâm đầu tư xây dựng Bia ghi công tại Suối Máu" tại chuyên mục Phương Nam. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.