Có một đại gia đình trí thức ở Hà Nội như thế

17/03/2021 22:12

Theo dõi trên

Tôi trở về Việt Nam sau hơn năm mươi năm xa đất nước, trở lại làng Vẽ, ngôi làng tôi chào đời và cũng là nơi đã ghi dấu ấn về một vùng đất nổi tiếng “ĐẤT GIÀN - QUAN VẼ” (Giàn là tên làng Xuân Đỉnh xưa, còn làng vẽ thì có truyền thống làm quan từ lâu đời.

Làng xóm nơi xưa tôi ra đi đã thay đổi nhiều quá. Hầu như tôi không còn nhận ra, bởi sự sung túc, đông vui, sầm uất, đẹp của ngôi làng xưa vốn xanh bóng tre. Một phần do chợ Vẽ nổi tiếng xưa mà nhà thơ Huy Cận từng viết trong bài thơ Tràng Giang khi ông còn học trường Canh Nông thời Pháp: "Đâu tiếng làng xa van chợ chiều", một phần do nhà cửa được xây san sát và các công trình kiến trúc hiện đại, một phần bởi cái vẻ đẹp rất riêng của mộ ngôi làng vốn có truyền thống ngàn năm văn vật...
 
 
Hà Nội xưa. Ảnh internet

Không còn những mái nhà lá, những mảnh đời nghèo đói mà bây giờ là những chàng trai, cô gái dập dìu đi chợ, đi học, đi làm, những chiếc xe hơi bóng nhoáng, sang trọng đi lại gây chật chội cả những đoạn đường. Không còn những chiếc khăn xếp, áo dài the, những chiếc khăn mỏ quạ, những chiếc nón lá của một thời xa vắng... Nhưng vẫn còn đó Cây đa đầu làng vẫn sừng sững đứng đó toả bóng mát cho làng, như chứng nhân của bao đổi thay, nơi ngày trước chúng tôi hay đánh bi, đánh đáo dưới gốc cây. Cái giếng nước trong vắt ngày xưa chúng tôi thường vốc nước uống sau mỗi trận đá bóng về, nay đã được xây lại, bao tròn một vùng đất, vẫn có thể soi bóng cho ai lúc trưa hè.
 
Đường làng nay đã trải nhựa, nhưng vẫn mát rượi bóng cây. Đình làng xưa được tôn tạo đẹp đẽ, khang trang mà vẫn giữ được vẻ cổ kính, uy nghiêm... Tôi đến thăm lại khu mộ Tổ tiên của chúng tôi: Nghĩa trang Tiểu Vương ở phía Tây Thành phố, thuộc làng Vẽ, xã Đông Ngạc, nay thành phố Kẻ Vẽ, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội. Tôi đến khu mộ của các cụ nhà tôi. Vẫn vậy, hai hàng mộ tựa lưng vào nhau như những người thân, sống, chết vẫn kề vai sát cánh, nương tựa nhau, như một cuộc tụ hội lớn của bốn thế hệ họ Phạm. Có điều người nằm xuống bây giờ đã gần kín cả hai dẫy mộ. Tôi ngậm ngùi thắp hương khấn các cụ. Điều khiến tôi ngạc nhiên là ngôi mộ cụ Tổ của chúng tôi xưa kia nở to như một cái gò, nay được đưa về đây, thu gọn trong một ngôi mộ xây như bao ngôi mộ. Sau này, tôi được chắt đích tôn của cụ kể lại: Ngày bốc mộ cụ hết sức li kì. Hôm đó, mưa dầm, gió bấc, lạnh buốt da, mọi người thuê thợ đào, xới suốt từ hai giờ chiều đến 12h đêm mà không tìm được tiểu của cụ. Lúc mọi người mệt mỏi quá hãy xin Âm Dương xin cụ chỉ bả. Như có sự tương linh vậy, vừa được cụ cho hai đồng xấp, ngửa thì giữa đêm đen rét lạnh, giữa mịt mù khói hương, chợt một con bướm nâu rất to, lấp loáng bay ra, lượn một vòng như chào đón cháu chắt, rồi đậu trên nóc tấm nilon nơi đang che khu đào đất và ngay sau đó, vang một tiếng "cạch" do một người phu đào mộ chạm vào vật gì đó. Mọi người chờ đợi âm thanh này suốt từ chiều nên ai cũng phấn khởi. Soi đèn nhìn kĩ, hoá ra là một góc chiếc tiểu sành vừa lộ ra, cũng đúng dưới chỗ con bướm đậu.

Khi cả chiếc tiểu vừa được lộ ra thì bỗng một con rắn xanh, có khoang đen, to, dài phóng ra rất nhanh từ phía chiếc tiểu của cụ. Phụ nữ thì hét ầm lên, đàn ông thì vội lấy xẻng, cuốc, thuổng đập chết con rắn. Có người nói đó là rắn thần gác mộ cho cụ đấy. Vậy mà sau đó, không thấy xác con rắn đâu nữa. Con bướm cũng bay đi từ lúc nào. Cụ có bà con dâu là vợ cụ Phạm Hồ, thân sinh cụ Hải, được Vua Bảo Đại tặng Khánh “Tiết hạnh khả phong“ năm 1936.

Nằm trong khu mộ gia đình, tôi nhìn thấy mộ cụ Phạm Học Hải, người từng nổi tiếng học rất giỏi. Cụ sinh ra ở làng Vẽ, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội, từng học trường Bưởi, sau đó, tốt nghiệp Đại học Luật Đông Dương khoá một và là Luật sư. Trong kháng chiến chống Pháp, cụ từng là Giám đốc Tư pháp ở Việt Bắc, người đã từng xử vụ án nổi tiếng của ngành Tư pháp: Vụ ông Đại tá Trần Dụ Châu. Về Hà Nội, cụ tiếp tục làm Chánh án Toà án Hà Nội, sau làm Phó Chánh án Toà án Phúc Thẩm tối cao Việt Nam. Cụ là Luật sư, nhưng rất  yêu Văn học. Được nghe kể, cụ thuộc và hiểu tường tận các tác phẩm Thơ Đường. Cụ yêu thích các tác phẩm Văn học Trung đại Việt Nam, yêu thích thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh... và giỏi tiếng Pháp, tiếng Trung. Đặc biệt, cụ đã dịch tập 4 của cuốn tiểu thuyết nổi tiếng 10 tập Jean Christophe của Romain Rolland. Sau khi nghỉ hưu, cụ còn được Trường Đại học Ngoại thương, Đại học Luật ở Hà Nội mời làm giảng viên thỉnh giảng bộ môn tiếng Pháp. 

Là luật sư, cụ cũng là nhà sư phạm, cụ bà lại mất sớm khi cô út thứ 10 mới 9 tuổi, một mình vất vả, hi sinh, lo toan, thân gà trống lặn lội  nuôi mười người con, nhưng cụ vẫn luôn dạy các con các cháu phải sống trung thực, liêm khiết, hết lòng vì công việc, gương mẫu trong cuộc sống, yêu quý và tôn trọng con người đời năm 94 tuổi. Các con, cháu chắt cụ đều là những người nổi tiếng.

Những ngày ở Hà Nội, tôi ở một khách sạn nằm ngay bên bờ hồ Gươm nên có dịp đi dạo quanh. Hồ Gươm vẫn thế, tuyệt đẹp với những hàng liễu mướt xanh, thướt tha, nghiêng nghiêng xoà bóng bên hồ như ngắm nhìn làn nước hồ Gươm dịu dàng trôi, như để tưởng nhớ đức Vua Lê ngày nào đã trả Gươm báu tại nơi đây; lại như nhớ những chiếc xe đạp mà các chàng học sinh trường Chu Văn An, trường Nguyễn Trãi ngày nào, cứ tan học lại phóng vèo xuống đây, dựng xe đạp vào gốc cây, rồi đứng chờ các nữ sinh Trưng Vương tan học. Các nàng đạp xe làm những tà áo dài làm tung bay như những cánh bướm bên hồ Gươm, khiến bao chàng đắm say, ngất ngây, mong chờ ánh mắt ai, vô tình hay lơ đãng.

Tôi đã được chiêm ngưỡng nhiều cảnh hồ đẹp như hồ Geneve ở Thuỵ Sĩ, hồ Đenkho ở Thuỵ Điển, hồ Baika của Nga... các hồ đều mĩ lệ vô cùng, nhưng sao cứ thấy hồ Gươm ở Hà Nội vẫn là đẹp nhất. Phải chăng vốn là người Hà Nội, tình yêu Hà Nội đã chảy trong huyết mạch của tôi? Hà Nội bây giờ phát triển nhanh quá, đẹp, hiện đại, bừng sáng với những toà nhà cao tầng, những biệt thự nguy nga, tráng lệ, những khách sạn 5 sao, những đường phố rộng, dài, những hàng cây cổ thụ cao ngất toả bóng, những chiếc ô tô tráng lệ chạy vút trên đường phố.


Những người đi đường với vẻ mặt hân hoan, mang những bộ quần áo đa phần là hàng hiệu, các cháu nhỏ với quần áo đồng phục tíu tít đến trường như những chú chim nhỏ. Hả Nội rực rỡ quá, có thể sánh với Paris, Belin,...

Tranh thủ, tôi cùng một người bạn vòng thăm các anh, chị con cụ Hải. Trưởng nữ của cụ, bà Phạm Thị Chi sinh, năm 1919, từng là Trưởng phòng Tài vụ của Bộ Nông Nghiệp & PTNT, tiếc là bà đã mất cách đây mấy năm. Tôi ngạc nhiên thấy chồng bà đã 100 tuổi mà giọng nói vẫn sang sảng, vẫn sáng tác nhạc và hát nữa mới giỏi. Được biết ông nguyên là Trưởng phòng Bảo vệ Thực vật, cục Bảo vệ Thực vật, Bộ Nông nghiệp cũ. Các con ông, bà đều trưởng thành và có con cả. Con trai lớn ông bà đã hơn 70 tuổi, nguyên là cán bộ phòng phát thanh, đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, một con gái đã tốt nghiệp Dược sĩ ở Rumanie, chồng nguyên là Giám đốc Xí nghiệp Da giầy Thuỵ Khuê, sau là Vụ trưởng Vụ Khoa học Công nghệ - Bộ Công thương. Một con gái khác của ông bà nguyên là chủ nhiệm Khoa Châm cứu ở BV Đông Y Nguyễn Bỉnh Khiêm...

Tôi lại tiếp tục rong ruổi trên con đường Cố Ngự, ngồi nhâm nhi tách Capuchino bên hồ, ngắm nhìn những cánh chim chiều chấp chới bay về tổ khi chiều buông, ngắm mặt trời lặn tuyệt đẹp bên bờ Hồ Tây và thưởng thức món Bánh Tôm Hồ Tây nổi tiếng, rồi qua khu Lăng Bác Hồ uy nghi, sang, đẹp.
 
Tôi tỉnh cờ đến thăm gia đình ông thứ ba của cụ, bác sĩ Phạm Duy Nhạc, sinh năm 1932, người từng đi bộ đội trong những năm kháng chiến chống Pháp, từng học ĐH Y Hà Nội, rồi làm phó vụ Y Dược học cổ truyền của Bộ Y tế. Sau đó ông cùng các đồng nghiệp xây dựng bộ môn y học dân tộc, tham gia thành lập trường Y học dân tộc Tuệ Tĩnh, rồi đảm nhiệm chức vụ hiệu trưởng của trường được phong PGS. Điều đáng tự hào là, ông đã từng cùng Đoàn Chuyên gia Y tế Việt Nam sang giúp CHXHCNXV Ukraina - Liên xô (cũ) giải quyết hậu quả trong vụ thảm hoạ Chernobyl (Чернобыльская катастрофа) năm 1986, đã điều trị bỏng cho những người bị nhiễm phóng xạ. Con út của ông là Phạm Quốc Binh, sinh năm 1998, học TS chuyên ngành Tim - Mạch ở Trung Quốc, hiện là Chủ tịch Hội đồng Trường - PGS- TS -BS,  Bí thư Đảng uỷ học viện Y - Dược học cổ truyền Việt Nam. Vợ cháu là Thạc sĩ, Điều dưỡng trưởng của khoa Đông Y BV Bạch Mai. Anh chị có con trai đang làm BSTim - mạch Nội trú ở Bệnh viện Bạch Mai. Đúng là một gia đình bác sĩ.

Tôi đã gặp con trưởng ông Nhạc, người từng tốt nghiệp ĐH Bách khoa Hà Nội, đã đi bộ đội 04 năm, rồi về làm ở Viện trang thiết bị Y tế. Sau đó, anh làm việc cho công ty của Nhật Bản, một công ty chuyên buôn bán máy móc, thiết bị Y tế của Nhật, chuyên cung cấp các thiết bị y tế hiện đại cho các bệnh viện  trong cả nước. Hiện, anh đã trang bị một thang truyền ghế thang máy (StarLift) cho mẹ, người bị viêm xương rất nặng, để bà ngồi di chuyển từ trên gác hai xuống nhà. Anh thứ hai của ông Nhạc nguyên là Giảng viên khoa Địa chất - Công trình trường ĐH Mỏ - địa chất...

Đang rong ruổi trên đường về khách sạn, tôi gặp anh Đồng, cháu đích tôn của cụ Hải, cháu nói là vừa đến thăm nhà ông bà ngoại ở phố Hàng Bè. Nghe nói, bà ngoại anh vốn là dân làng Vẽ, thuộc gia tộc họ Hoàng Tích, một gia tộc lớn và thành đạt. Cụ từng là nữ sinh trường Nữ học Đồng Khánh thời Pháp (nay là trường Trưng Vương). Sau đó, anh kéo tôi vào khách sạn Metropol uống Cafe - Trứng, ăn bánh Gato Pháp. Quả là không vào đây cũng tiếc, đẹp, quý phái, sang trọng, thanh lịch, như một khách sạn 5 sao ở Mỹ. Hai chú cháu vừa nhâm nhi tách Cafe - Trứng nóng hổi, thơm phức, đậm đà, bùi, ngậy. Vừa nói chuyện về gia đình cháu. Bố anh là ông Phạm Như Mai, cũng từng đi bộ đội những năm chống Pháp, Học Ts Hoá tại Rumani, làm ở Uỷ ban Khoa học kỹ thuật tới lúc nghỉ hưu và mất năm 1997.

Theo cháu Đồng kể thì cháu cũng từng trải qua một thời gian rất lận đận. Sau khi tốt nghiệp ĐH Bách khoa HN, cháu cùng Bố, mẹ vào TPHCM, cũng vất vả mấy năm lập nghệp. Do một cơ duyên, anh chuyển sang làm việc ở lĩnh vực Y tế và thành công trong lĩnh vực này. Cháu là Th.sĩ từng tu nghiệp ở  Úc, là TGĐ Cty Sơn chất dẻo - Tập đàn Hoá chất và năm 2001 đã tham gia sáng lập hệ thống Bv SG ITO rồi làm Chủ tịch HĐQT - từ  năm 2006 - nay. Hiện là Phó Chủ tịch Hiệp hội BV tư nhân Việt Nam! Các BV của cháu đều sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao, chữa bệnh không chỉ cho bà con ở TPHCM mà còn cho các bệnh nhân ở các khu vực, các tỉnh lân cận, nhất là trong dịp dịch Covid và bão lũ ở các tỉnh miền Trung vừa qua.

Mẹ cháu từng là người đẹp Phố Cổ ngày xưa, mà một thời các anh học Chu Văn An và Nguyễn Trãi gọi là "Người đẹp Hồ Gươm" từng làm ở viện Hoá TPHCM, nay đã nghỉ hưu. 

Do được giới thiệu, tôi đến thăm gia đình bà Diệp, con thứ tư của cụ Hải. Được biết bà nguyên là trưởng phòng Thư viện của BV Việt Đức, chồng bà là GS-BS Nguyễn Xuân Ti, nguyên là chuyên gia về Tim - Lồng ngực, người từng làm Trưởng ban Y tế của Bộ Tư lệnh QĐND, phụ trách Quân Y Sư đoàn 306, Chủ nhiệm khoa Ngoại của BVQĐ 108, khoa 1B và khoa Tim - Lồng ngực  Bệnh viện Việt Đức, người mà mấy anh em chúng tô ở nước ngoài làm ngành Y luôn ngưỡng mộ, coi là "Bàn tay vàng". Cả hai ông bà đã mất. Họ có người con trai lớn, tốt nghiệp rồi làm việc ở Đức, một cháu gái tốt nghiệp ĐH ở Bulgarie, cháu là một doanh nhân trẻ cực kì năng động, hiện ở TP Hồ Chí Minh. Cháu có một cháu trai tốt nghiệp BS chuyên khoa mắt ở Pháp và đang mở BV riêng ở TP Hồ Chí Minh, một con trai nữa của ông bà dậy Lý ở  ĐH Mỏ và một cháu trai, cháu gái đang kinh doanh ở Tp. Hồ Chí Minh.

Trở về khách sạn, tôi đang đứng ngắm cầu Thê Húc và xem ông Đồ viết chữ bên ven hồ, chợt nhận được điện thoại của người bạn, rủ đến chơi nhà bà Hương, con út cụ Hải. Bà mời chúng tôi đến ăn cơm, nhân dịp vợ chồng ông Hinh ở Biên Hoà và bà Mai ở TP. Hồ Chí Minh mới ra. 
 
Hôm sau, trong một chiều mưa, ráng vàng trên trời hồ Gươm báo hiệu mưa sẽ kéo dài, tôi đi bộ đến Quán Sứ, ngôi nhà mà cụ Hải từng sống. Đi dưới trời mưa Hà Nội cũng có cái đẹp riêng. Trong màn mưa mờ ảo, đường phố trở nên lãng mạn, mơ màng hơn, tuy vẫn ồn ào, náo nhiệt. Dọc qua phố Hàng Gai, Hàng Bông, tôi tranh thủ ngắm những bức tranh thêu, những sản phẩm thủ công của mọi miền vô cùng phong phú và đẹp mắt, để khi về lại Mỹ mua làm quà cho vợ con. Gặp lại các ông, bà con cụ Hải, chúng tôi không khỏi ngậm ngùi nhắc lại những kỉ niệm xưa ở Hà Nội. Anh bạn tôi còn nhắc lại kỉ niệm về phu nhân cụ Hải, người mẹ vô cùng đảm đang đã nuôi dưỡng 10 người con không chỉ nên người mà còn rất thành đạt, nhắc lại những trò chơi, những câu chuyện mà chỉ họ biết... Vui quá! Tôi được gặp bà Thanh, sinh năm 1941, biết bà nguyên là BS - Chủ nhiệm Khoa Nội ở BV Y học dân tộc Nguyễn Bỉnh Khiêm, được đào tạo chuyên ngành Đông Y  tại ĐH Bắc Kinh - Trung Quốc và từng làm chuyên gia Y tế bốn năm ở Angola. Bà còn rất trẻ, khoẻ, nước da trắng hồng, giọng nói sang sảng như thanh niên. Chồng bà là Ngô Thế Phương, từng tốt nghiệp TSKH ở CHDC Đức cũ, là GS-TSKH-BS, nguyên là Vụ trưởng Vụ Đào tạo của Bộ Y tế. Ba con của bà một từng là chủ nhiệm Khoa Nội của BV Đông Y Nguyễn Bỉnh Khiêm, BV Đông y lớn nhất Việt Nam, một cháu hiện là chủ nhiệm bộ môn ngoại ngữ ở ĐH Y Hà Nội, chồng cháu là TGĐ một công ty Thép Việt Hàn, có cơ sở ở Hải Phòng, một cháu đang làm việc cho công ty nước ngoài ở Sài Gòn.

Gặp bà Mai, mới biết bà từng tốt nghiệp TS ở Liên Xô cũ, nguyên là PGS-TS - Chủ nhiệm Bộ môn Sinh - Hoá của trường ĐH Y thành phố Hồ Chí Minh. Chồng bà, TS-BS Lê Văn Tố, từng tốt nghiệp TS ở Liên Xô cũ, là chuyên gia về Xương - Khớp ở TPHCM. Năm 2005, hai ông bà có mở bệnh viện riêng ở TPHCM, BV STO Phương Đông - một BV lớn ở TPHCM chuyên về Ngoại khoa và Chấn thương - Chỉnh hình. Ông Tố là Giám đốc Bệnh viện của ông bà có một đội ngũ BS rất giỏi. Tôi được nghe, ông Tố đã từng mổ từ thiện cho rất nhiều người nghèo và trẻ em khuyết tật (có tới vài chục ngàn người) trên khắp đất nước, đặc biệt ở tỉnh Ninh Bình, quê hương ông.

Con trai ông bà tốt nghiệp ĐH Bách khoa Hà Nội, hiện đang làm giám đốc một cảng biển ở Canada và một con gái đang làm việc tại TPHCM. Gặp  vợ chồng ông Hinh, tôi được biết là ông đã đi bộ đội từ những năm 1963, đã chiến đấu ở rất nhiều mặt trận, lâu nhất là ở Campuchia, nơi chiến tranh cực kì khốc liệt. Ông trở về với quân hàm Trung tá và rất nhiều Huân chương. Vợ ông, nguyên là GV dạy Hoá trường THPT ở thành phố Biên Hoà. Con lớn ông cũng tốt nghiệp ĐHBK Hà Nội, cháu cũng mở công ty thương mại, liên doanh với Nhật,  chuyên buôn bán máy móc chuyên dụng cho ngành Y. 

Người con gái út của cụ là bà Phạm Lan Hương người phụ nữ xinh đẹp, đảm đang, tháo vát, xởi lởi. Bà là Thạc sỹ, nguyên là Giảng viên trường ĐH Thái Nguyên, sau đó về Ban biên soạn Sách của Bộ GD&ĐT, rồi làm Viện sĩ viện Hàn lâm KHGDVN. Chồng bà, ông Trần Anh Dũng, TS Hoá, nguyên là Giảng viên ĐH Thái Nguyên, sau làm chuyên viên của Vụ Khoa học - Công nghệ của Bộ GD&ĐT. Sau đó sang làm Bí thư thứ nhất đại Sứ quán Việt Nam tại Đức, chuyên phụ trách khối nghiên cứu sinh. Con gái và con rể của ông bà làm Trưởng phòng Thuế của quận Hà Đông và quận Đống Đa. Con trai ông bà hiện là kĩ sư, đang làm việc cho một công ty nước ngoài. Bây giờ nhà bà trở thành một Literatur Bureau, nơi tụ tập cho những người đi xa về và mỗi khi gia đình có việc lớp.

Theo đề nghị của các anh, chị, chúng tôi sẽ cùng bà Hương, bà Mai và bà Thanh xuống Quảng Ninh chơi rồi vào thăm bà Phượng. Chị em chúng tôi thuê một chiếc tàu nhỏ đi vòng quanh Vịnh Hạ Long đẹp mê hồn, như một huyền thoại, với những ngọn núi nhỏ đứng lô xô trên mặt biển xanh mướt màu cô ban, như những người lính gác biển và như những hướng dẫn viên du lịch đón chào du khách thập phương, cùng những hang động có tự bao đời. Nơi đây quả xứng đáng với sự tôn vinh của UNESCO, xứng đáng là kì quan thế giới. Đến chị Phượng, được chị và các cháu chào đón nồng nhiệt với nồi lẩu cá to bự mà con dâu chị mua về. Con cá Song nặng tới 04kg. Vừa ăn uống, vừa chuyện trò thật rôm rả, bởi những kỉ niệm vui vẻ các cụ, về các con chị Hải ngày bé. Bà Phượng là cô gái xinh nhất, con cụ Hải, bà theo chồng xuống đất mỏ, nguyên bà là cán bộ Sở Thương nghiệp tỉnh Quảng Ninh. Chồng bà là ông Ngô Đình Tuyển, nguyên Chánh an Tòa án Cẩm Phả, sau chuyển sang làm phó GĐ Sở Tư pháp, tỉnh Quảng Ninh. Con trưởng chị là Ngô Thế Quang nguyên vụ trưởng vụ chính sách của Tổng cục thuế - Bộ tài chính, cháu còn là thành viên ban soạn thảo pháp luật về thuế của cả nước. Cháu út hiện nay là phó giám đốc Trung tâm chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, các cháu khác đều thành đạt.
 
Trở về Hà Nội, người tôi mong gặp nhất là anh Danh, người cùng tuổi, cùng học với tôi ngày nhỏ. Gặp lại chị Doanh trong bữa cơm thân mật, tôi lại nhớ đến cái lần đầu tiên, Noel năm 1958, tôi gặp chị đứng bẽn lẽn cùng anh Doanh ở cổng trường Anbert Sarraut, ôm chiếc cặp trước ngực. Lần thứ hai người là năm 1961, lúc chị tốt nghiệp cấp 3 (THPT). Anh Doanh hẹn tôi chờ ở cổng trường Anbert Sarraut. Khi hai người sánh vai bước ra, một người mày kiếm mắt sáng, một người ôm hoa mà tươi cười đẹp như hoa. Hai người thỉnh thoảng lại nghiêng đầu nói với nhau gì đó, tạo ra một khung cảnh vui tai, vui mắt, đến nỗi, tôi đứng đó cũng ngỡ ngàng. Bây giờ chị đã trưởng thành NGƯT - PGS - TS - GVCC, nguyên giảng dạy ở ĐHSP. Còn anh Doanh người con đẹp trai nhất, rất tài  hoa (kéo Accordeon rất hay), của cụ Hải, sau khi tốt nghiệp ĐH Bách Khoa Hà Nội, khóa một anh cũng đi khắp nơi, vào Nam ra Bắc, xuống đất mỏ Đông Triều, từng làm PGĐ, GĐ ở nhiều công ty thuộc TCT vận tải đường sông số 1… Anh từng được Bộ trưởng Bộ GTVT Đồng Sỹ Nguyên hồi đó xem là một trong TỨ HÙM của Bộ giao thông trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Sau anh làm Phó TGĐ TCT xây dựng đường thủy, thuộc Bộ GTVT tới lúc nghỉ hưu. Các con của anh đều trưởng thành, cháu lớn là giám đốc một công ty vận tải thủy, một cháu là kĩ sư làm việc cho một công ty khai thác đá quý ở Lào, một cháu gái làm quyền giám đốc Trung tâm thuyền viên của TCT Thủy Bắc, cháu rể là phó phòng Nội chính quận Hà Đông, một cháu là PGĐ một công ty xây dựng ở TP.Hồ Chí Minh, một cháu là kĩ sư ở cảng Hải Phòng. Nay anh đã mất, do một căn bệnh hiểm nghèo. Thật tiếc, một con người tài hoa, cởi mở đầy nghị lực.
 
Tóm lại gia đình cụ Hải là một đại gia đình trí thức ở Hà Nội, cụ có tới 10 lăm con trai, gái, dâu, rể, cháu, chắt là bác sĩ của hai ngành đông và tây y, hơn 10 cháu đang làm việc và học tập ở các nước: Mỹ, Úc, Canađa, Anh, Nhật, Đức, Pháp.
 
Trở về Mỹ anh chị em chúng tôi nói với nhau: Một gia đình như thế quả là hiếm có, quả là niềm tự hào của dòng họ Phạm, niềm tự hào của Hà Nội, mảnh đất ngàn năm vạn vật, nơi tụ hội những tinh anh của đất nước và cũng là niềm tự hào của làng Vẽ, xã Đông Ngạc, huyện Từ Niêm (cũ) - Hà Nội, mảnh đất đã sinh ra và nuôi dưỡng biết bao nhiêu Hiền Tài cho đất nước suốt chặng đường dài lịch sự của dân tộc, trong đó có cả anh chị em chúng tôi.
 
Nguyễn Gia Thanh

Bạn đang đọc bài viết "Có một đại gia đình trí thức ở Hà Nội như thế" tại chuyên mục Phương Nam. Chuyên trang của Tạp chí điện tử Văn hóa và Phát triển.