Đồng bào vùng thượng du Thanh Hóa - 70 năm thỏa lòng Bác Hồ!

70 năm, lần đầu Bác về thăm Thanh Hóa cũng là 70 năm đồng bào vùng thượng du hoà cùng đồng bào cả tỉnh Thanh Hóa nỗ lực, tự cường trong kháng chiến cũng như trong xây dựng, phát triển kinh tế... thoả lòng mong muốn của Bác.

Từ bức thư thắm đượm tình Người

Trong bức thư Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi đồng bào thiểu số Thanh Hóa ngày 21/2/1947 có nêu lý do Bác không lên thăm được đồng bào thượng du: “Cùng đồng bào yêu quý. Tôi đến thăm Thanh Hoá, tôi định lên thăm đồng bào, nhưng có việc gấp phải trở về ngay, chưa lên được. Tôi lấy làm tiếc. Lần sau tôi sẽ lên thăm đồng bào. Lúc này toàn thể quốc dân đang ra sức chống giặc cứu nước. Tôi chắc đồng bào thượng du đều ra sức đoàn kết chuẩn bị tham gia giết giặc cứu nước để giữ vững quyền thống nhất độc lập của Tổ quốc. Việc dìu dắt đồng bào thượng du, tôi trông cậy lòng ái quốc và sự hăng hái của các vị lãnh đạo”.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành nhiều tình cảm đặc biệt đối với đồng bào thượng du miền núi. Đáp lại với tình cảm đó, đồng bào các dân tộc vùng thượng du Thanh Hóa xuyên suốt chiều dài lịch sử suốt 70 năm qua, luôn ra sức, tự cường trong kháng chiến cũng như trong xây dựng, phát triển kinh tế. Trong chiến đấu, đồng bào vùng thượng du đã phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn, gan dạ, kiên trung; là lực lượng không thể thiếu, đóng góp vai trò to lớn tham gia tiếp lương, tải đạn, chi viện cho tiền tuyến. Đặc biệt, cùng quân và dân cả nước làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”. Trong cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, đồng bào thượng du Thanh Hóa lại tiếp tục đẩy mạnh các phong trào thi đua lao động sản xuất. Chắc tay súng, để chống trả sự đánh phá ác liệt của máy bay Mỹ, bảo vệ các tuyến đường giao thông huyết mạch, các cơ sở quân sự. Vững tay cày, tiếp tế, chi viện lương thảo cho chiến trường miền Nam.




Đồng chí Lê Duẩn - Tổng Bí thư và đồng chí Trường Chinh - Chủ tịch Hội đồng Nhà nước gặp gỡ cán bộ đồng bào miền núi Thanh Hóa năm 1985. (Ảnh tư liệu Ban Dân tộc tỉnh cung cấp).

Phát huy truyền thống tốt đẹp của mảnh đất anh hùng, đồng bào thượng du Thanh Hóa đã làm việc quên mình, đóng góp không nhỏ cho sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Nhiều phong trào thi đua “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; thi đua học tập tốt, lao động sáng tạo... được phát động với sự tham gia của mọi tầng lớp nhân dân.

Trưởng ban Dân tộc tỉnh - Lương Văn Tưởng nhận định: Ở Bác luôn có một tình cảm đặc biệt cho đồng bào các dân tộc vùng thượng du. Ngay trong lần đầu tiên Bác về thăm Thanh Hóa ngày 20/2/1947, bước sang ngày thứ 2 tức ngày 21/2 Bác đã có ý tưởng lên thăm đồng bào thượng du. Tuy nhiên, vì có việc gấp Bác phải trở về ngay. Bác lấy làm tiếc và hẹn lần sau Bác sẽ lên thǎm đồng bào.

Đặc biệt, ngày 4/4/1947 Bác đã ký sắc lệnh số 41- SL thành lập UBHC đặc  biệt miền Thượng du Thanh Hóa, với 4 nhiệm vụ chính: Giúp Ủy ban Hành chính tỉnh giải quyết các công việc ở sáu châu miền thượng du Thanh Hóa; Động viên dân chúng để chuẩn bị kháng chiến; Đốc xuất việc tăng gia sản xuất; Phát triển bình dân học vụ. Đây là cơ quan hành chính “đặc biệt” về chức năng nhiệm vụ, tương tự như một chính quyền khu vực 6 huyện miền Tây, tổ chức, động viên, dồn sức cán bộ, đồng bào tích cực sản xuất và tham gia kháng chiến.

So sánh miền núi và vùng dân tộc thiểu số cả nước trong hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp thì “độc nhất vô nhị”, chỉ riêng miền núi Thanh Hóa mới có một Ủy ban kháng chiến như Sắc lệch số 41-SL do Hồ Chủ tịch ký.

Về tính chất, đặc trưng thì đây là UBHC đặc thù của cơ quan công tác dân tộc. UBHC đặc biệt thượng du Thanh Hóa, do đồng chí Phạm Văn Bỉnh - Đặc phái viên của Bộ Nội vụ do Hồ Chủ tịch cử về làm Phó Chủ tịch. Nhưng đại đa số là lãnh đạo từ các châu tham gia, như Lê Xuân Kỳ, Cầm Bá Bảo, Phạm Thúc Tiêu... Đây không chỉ thể hiện tính đặc thù về tổ chức nhân sự, mà còn đậm nét đường lối, sách lược mềm dẻo, khôn khéo của Bác khi mà vai trò của lãnh đạo (vùng Mường) và Thổ ty (vùng dân tộc Thái) còn lớn. Nhờ vậy mà việc giành và giữ chính quyền ở các châu miền núi giảm được nhiều sự đổ máu, hy sinh.

Đến diện mạo vùng thượng du hôm nay

70 năm qua, Ủy ban hành chính đặc biệt miền thượng du Thanh Hóa và nay là Ban Dân tộc tỉnh Thanh Hóa, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử và yêu cầu phát triển của từng thời kỳ mà nhiệm vụ mỗi giai đoạn có sự thay đổi ít nhiều. Trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, công tác dân tộc luôn được quan tâm và vùng dân tộc miền núi có bước phát triển toàn diện trên các lĩnh vực. Theo báo cáo sơ kết 3 năm thực hiện Nghị quyết 09-NQ/TU ngày 04/11/2013 của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gần đây về “Tăng cường lãnh đạo của Đảng đối với công tác giảm nghèo nhanh và bền vững ở các huyện miền núi Thanh Hóa đến năm 2020”  thì thành quả đạt được là hết sức to lớn.




Diện mạo huyện Mường Lát đang ngày càng khởi sắc. (Ảnh: T.T)

Với việc đẩy mạnh phát triển sản xuất trên cơ sở khai thác có hiệu quả tiềm năng, lợi thế của miền núi nhằm cải thiện đời sống và nâng cao thu nhập cho người nghèo. Sản xuất nông - lâm - thủy sản bước đầu đã phát triển theo hướng sản xuất hàng hóa, giá trị bình quân hàng năm đạt 6,3%; lâm nghiệp phát triển theo hướng xã hội hóa, trong 3 năm trồng mới được 30.048 ha rừng tập trung và hơn 1 triệu cây phân tán, khoanh nuôi tái sinh 7.605 ha, bảo vệ 584.875 ha, sản xuất 830.986m3 gỗ; Thủy sản chuyển từ khai thác tự nhiên sang nuôi trồng, tốc độ tăng trưởng về sản lượng giai đoạn 2013 - 2015 tăng 9,5 lần. Sản xuất công nghiệp phát triển khá, giá trị sản xuất năm 2015 đạt 2.857 tỷ đồng, chiếm 5,4% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh; tốc độ tăng trưởng bình quân giai đoạn (2013 - 2015) đạt 10,7%; nhiều sản phẩm công nghiệp mới (quần áo, dăm gỗ, ép ván công nghiệp...) xuất hiện. Các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp như dệt thổ cẩm, chế biến lâm sản bước đầu được khôi phục, tạo việc làm, tăng thu nhập. Các ngành dịch vụ cơ bản đáp ứng được nhu cầu sản xuất, sinh hoạt của nhân dân, giá trị sản xuất hằng năm tăng 20%....

Về đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng khu vực miền núi, phục vụ phát triển KT-XH, giảm nghèo bền vững. Kết quả trong 3 năm đầu tư, nâng cấp, xây dựng được 700 km đường giao thông, 3 đường tràn thuộc dự án đầu tư cầu treo, hoàn thành 21/22 cầu treo thuộc Đề án 186 trên địa bàn các huyện miền núi, một số tuyến đường lớn, các công trình thủy lợi được đưa vào sử dụng. Cùng với đầu tư hạ tầng kỹ thuật, nhiều kết cấu hạ tầng xã hội cũng được đầu tư. Đến nay đã có 6.948 phòng học được kiên cố hóa, xây dựng mới, cải tạo nâng cấp 7 trung tâm y tế, 11 bệnh viện đa khoa. Trong 3 năm xây dựng mới 148 công trình cấp nước sinh hoạt tập trung, cấp nước phân tán cho 4.471 hộ; các trạm y tế xã, các công trình văn hóa, thể thao thôn, bản... được đầu tư từ Chương trình 135, chương trình giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết 30a,... Bên cạnh đó, công tác vận động, xúc tiến đầu tư có nhiều chuyển biến tích cực. Giai đoạn (2013 – 2015) có 48 dự án được cấp chứng nhận đầu tư, tổng vốn đăng ký 12.674 tỷ đồng; công tác phát triển doanh nghiệp được quan tâm, trong 3 năm có 253 doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tổng vốn điều lệ đăng ký 1.561 tỷ đồng, đến năm 2015 có 757 doanh nghiệp đang hoạt động, chiếm 9,8 % doanh nghiệp đang hoạt động toàn tỉnh.

Ngân hàng Chính sách Xã hội đã tập trung triển khai đầy đủ, kịp thời đến vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, nâng mức vốn đầu tư bình quân mỗi xã từ 11,2 tỷ đồng (năm 2013) lên 14 tỷ đồng (năm 2015). Đến nay đã có 49 nghìn lượt hộ nghèo được vay vốn với tổng số tiền trên 1 nghìn tỷ đồng, tăng 18,7% so với năm 2013. Nhờ đó, góp phần giảm nghèo từ 27,99% năm 2012 xuống còn 13,0% cuối năm 2015.

Giáo dục và đào tạo, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đến nay đã có 209/686 trường đạt chuẩn Quốc gia. Năm 2015, 100% số huyện miền núi hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non. Công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực, chất lượng khám, chữa bệnh các tuyến cơ sở được nâng lên. Trên địa bàn có 11 bệnh viện, 8 phòng khám khu vực, 196 trạm y tế xã/2.532 giường bệnh/2.176 cán bộ y tế, trong đó có 484 bác sỹ...

Song song với sự thay da đổi thịt từ sự phát triển của KT-XH, công tác QP-AN được đảm bảo. Thực hiện tốt đề án “Tăng cường lực lượng đảm bảo an ninh khu vực biên giới phía Tây Thanh Hóa giai đoạn 2011 - 2015”, kế hoạch “Tăng cường lực lượng liên ngành tại các bản trọng điểm phía Tây Thanh Hóa”, tuyên truyền vận động nhân dân đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động chống phá các chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước,... Đặc biệt, tăng cường công tác phòng, chống các loại tội phạm. Phối hợp với các lực lượng quân sự, Công an tỉnh Hủa Phăn (Lào) đảm bảo an ninh, trật tự tuyến biên giới hai nước, cũng như trật tự an toàn xã hội vùng dân tộc được đảm bảo, quan hệ đoàn kết, tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Lào.


Đình Giang

Nguồn: vanhoadoisong.vn

Link nội dung: https://phuongnam.vanhoavaphattrien.vn/dong-bao-vung-thuong-du-thanh-hoa-70-nam-thoa-long-bac-ho-a8776.html