Chuyện cổ tích giữa đời thường của đôi vợ liệt chồng mù

Nhiều người bảo hai anh chị là “khùng” khi lấy nhau. Anh bị mù cả hai mắt, có một đời vợ và đứa con gái nhỏ, còn chị liệt chân tay khó đi lại và làm được việc gì. Nhưng mặc cho gia đình ngăn cấm thậm chí “từ mặt”, anh chị vẫn quyết tâm vượt qua mọi rào cản để đến với nhau xây dựng một cuộc sống hạnh phúc. Đó là câu chuyện tình đẹp như cổ tích của đôi vợ chồng đặc biệt nhất chốn này.



Vợ chồng anh Hòa, chị Tuyết hạnh phúc bên nhau.

Tình mẫu tử “nối duyên”

Chúng tôi đã tìm đến nhà anh Bùi Hòa (45 tuổi) với chị Đinh Thị Tuyết (49 tuổi, ở khối phố 2, thị trấn Núi Thành, huyện Núi Thành, Quảng Nam) vào một buổi chiều nắng nhạt. Trên con đường mòn dẫn xuống chợ, chúng tôi vẫn còn thấy mọi người kể nhau râm ran về câu chuyện tình yêu được ví như “cổ tích hiện đại”. Hai con người tật nguyền đã viết nên câu chuyện tình đẹp và đặc biết ấy trú ngụ trong một căn nhà chỉ nhỏ chừng 25m2 nhưng rộn ràng tiếng nói cười hạnh phúc giờ cơm trưa. Đó là tổ ấm mà 4 năm rồi, chị Tuyết về sống với anh Hòa và đứa con gái ruột của anh là Bùi Thị Thảo Nguyên (10 tuổi) đã chung sống với nhau trong niềm tin vào tình yêu và cuộc sống. Bà con lối xóm ai cũng khen chị Tuyết là một người mẹ, người vợ đẹp nết, yêu thương chăm sóc con riêng anh Hòa như đứa con mình sinh ra vậy.

Từ lúc sinh ra bình thường như bao người khác. Nhưng đến năm 8 tuổi, sau một trận ốm nặng do biến chứng thương hàn thì anh Hòa chỉ còn thấy mọi vật mờ mịt, chẳng bao lâu đã mù một bên mắt trái. Vì gia đình hoàn cảnh khó khăn không chạy chữa nên một thời gian sau thì anh mù hẳn cả hai mắt. Anh phải tự mò mẫm tập quen dần với bóng tối và gắn chặt 20 năm cuộc đời bán vé số mưu sinh. Còn chị Tuyết cũng là một người khuyết tật. Từ lúc sinh ra chị bị liệt một chân và một tay 6 ngón co quắp lại, rất khó khăn để di chuyển làm được việc. Mỗi người một hoàn cảnh nhưng định mệnh đã gắn chặt anh chị đến với nhau bằng tình yêu thương đứa con gái nhỏ cần bàn tay người mẹ kế.

Ngồi kể chuyện của mình, hai vợ chồng cứ ngượng ngùng như đôi trẻ mới yêu nhau. “Ngày ấy, anh làm chổi đót và tăm tre nhân ái ở Hội người mù Núi Thành đem bán. Trong một lần, mình đến phụ giúp nấu ăn uống cho mọi người ở đây, thấy anh Hòa dắt đứa con gái nhỏ đi theo ngồi bên cạnh khiến mình để ý. Nghe mọi người nói, anh có vợ rồi nhưng đã mất, anh lại bị mù nên mọi sinh hoạt chăm lo cho mình đã khó lại nuôi đứa con gái nhỏ. Thế rồi, mình chủ động bắt chuyện làm quen với anh. Mỗi ngày trông thấy anh và con bé giúp nhau làm chổi mình thấy thương lúc nào không hay. Cùng chia sẻ bao buồn vui vất vả trong cuộc sống đã gắn kết hai cả ba người lại với nhau…",chị Tuyết bồi hồi kể lại.

Sau hai năm tìm hiểu, một hôm anh Hòa quyết định phải nói nỗi lòng của mình với chị. Anh dẫn theo đứa con gái đến trước chị Tuyết sau một buổi chiều mưa. “Tuyết ơi, em bằng lòng về với anh nhé! Vợ anh đã mất rồi, anh lại bị mù, đứa con gái nhỏ của anh rất tội nghiệp. Anh không phải người lành lặn để nuôi con được tốt. Một mai này anh cũng mất đi nó rất cần một bàn tay người mẹ chăm sóc…”, anh Hòa chan chứa nước mắt hạnh phúc nhớ lời cầu hôn khi ấy.

Khi nghe nỗi lòng của anh, chị Tuyết đã khóc rất nhiều. Tình cảm chị dành cho anh và bé Thảo Nguyên rất lớn. Và chị đã gật đầu không do dự. “Chúng mình là hai nửa khuyết tật đến với nhau. Em sẽ là đôi mắt cho anh, anh sẽ là đôi chân của em. Hai chúng mình sẽ có một gia đình hạnh phúc anh nhỉ?”, chị bảo với anh như thế. Thế nhưng để nên duyên vợ chồng với anh Hòa, chị Tuyết đã vấp phải sự phản đối quyết liệt từ gia đình. Rất nhiều lời khuyên của cha mẹ xin chị hãy từ bỏ cuộc hôn nhân này để khỏi khổ vì lấy một người mù đã có một con, chị lại bị khuyết tật nên làm sao chăm sóc cho nhau. Nếu không đồng ý gia đình sẽ từ không nhìn mặt chị nữa.

Trước sự ngăn cản lớn của gia đình, chị Tuyết đã khóc rất nhiều, chị đã đi Sài Gòn một thời gian để quên đi anh Hòa nhưng… chị không làm được điều đó. Chị Tuyết tâm sự: “Lúc đó mình đã thương cha con anh Hòa mất rồi. Bé Thảo Nguyên xem chị như một người mẹ thứ hai, vì đã 7 năm rồi cháu không nhận được tình thương sau khi mẹ mất lúc vừa tròn 2 tháng tuổi. Những ngày tháng được bên cạnh hai cha con anh Hòa đã khiến mình có thêm sức mạnh và niềm tin cho cuộc sống mai này!” Quả thật, thời gian nào có chia lìa được tình mẫu tử “nối duyên” và khao khát sống bên nhau của hai anh chị. Sau nhiều lần cấm cửa ngăn cản, cha mẹ và người thân chị Tuyết biết chuyện cũng đã gật đầu để hai anh chị được đến với nhau. Niềm yêu thương vỡ òa, hai anh chị làm một mâm cơm nhỏ trước ông bà, cha mẹ, bạn bè để được về nương tựa sống với nhau chăm sóc bé Thảo Nguyên.
 


Anh Hòa đi bán vé số nuôi gia đình.



Chị Tuyết thì mở sạp buôn bán nhỏ ở chợ.

Niềm hạnh phúc khi có nhau trong đời

Cảm động trước hoàn cảnh và tình yêu thương hai anh chị dành cho nhau, UBND thị trấn Núi Thành đã cấp cho 25m2 đất trong khuôn viên chợ. Hai bên nội ngoại và bạn bè, người góp gạch, xi măng, người cho tôn, người cho gỗ để xây một căn nhà tạm bợ che mưa che nắng. Trong ngôi nhà xập xệ, cái bếp đặt ngay cạnh đầu giường để ngủ, mùa nắng thì nóng nực, mùa mưa nước chảy lênh láng. Vật dụng quý giá nhất trong nhà có lẽ là chiếc bình lọc nước mà các tiểu thương trong chợ gom góp nhau mua tặng.

Mỗi ngày, anh Hòa đi bộ hơn 20km để bán vé số. Còn chị Tuyết không đi lại được nhiều nên mở một sạp tạp hóa nhỏ bán lá chè xanh, mắm muối… kiếm thêm thu nhập. Chị Tuyết cho biết: “Tội nghiệp ảnh lắm! Sáng sớm đã dậy tự một mình vệ sinh không dựa vào ai cả, rồi chuẩn bị chiếc ba lô cũ đựng vé số, chiếc ca nhựa nhỏ và một chiếc gậy để đi làm. Mỗi lần về sớm là đi kiếm củi để nấu ăn, ngày bán hết vé đem về cũng được 25 đến 30 chục ngàn. Còn mình buôn bán ở chợ cũng kiếm được gần 15 ngàn tiền lời mỗi ngày. Tất cả đều để chăm lo cho con gái và cuộc sống. Nhiều khi mùa mưa không ai mua vé số, vợ lại bán không được hàng là cả nhà không có gì ăn cả. Vậy nên cứ đến cuối tháng một lần, mình lại đi hát rong ở chợ Quảng Ngãi, Bình Định hay TP. Tam Kỳ để kiếm thêm được đồng chi tiêu cho những lúc túng thiếu. Có ngày phải đi đến hơn 200km lận!” Vừa nói anh Hòa vừa chỉ chiếc máy hát nhạc nhỏ cắm micro và chiếc ca nhựa cũ để xin tiền. Chúng tôi hỏi anh bị mù vậy đi xa như thế có biết đường về không? Ngập ngừng trong giây lát, anh Hòa bảo: “Lúc đầu chưa quen đường sá, phải mò mẫm bằng chiếc gậy lập cập dò đường trước. Mỗi khi đi ngang qua đường cái nghe không có tiếng xe thì giơ hai tay có chiếc gậy lên cao để xin đường. Nhiều khi đi qua xe bất thình lình chạy tới là mình hoảng hồn đứng lại, họ chửi bới nhiều lắm! Đến chỗ đông người có tiếng ồn ào thì dừng lại hát, có chủ quán thương tình thì cho không thì dọa nạt xua đuổi. Có bữa đi lạc đường, may mắn thì có người chỉ đường mà đi về!”

Thương bố mẹ còn lắm cực khổ, bé Thảo Nguyên cũng đã biết phụ giúp đỡ đần những việc nhỏ trong nhà. Em đã biết nấu cơm, rửa chén sau mỗi giờ tan học về. Mỗi tối, cả nhà lại quây quần bên mâm cơm đạm bạc quan tâm nhau. Và một điều đặc biệt, bé Thảo Nguyên thương mẹ lắm dẫu không phải là mẹ ruột của mình. Và chị Tuyết cũng thương đứa con này như chính con mình dứt ruột đẻ ra. Mỗi buổi đi học về là bé thảo nguyên lại chạy ra với mẹ, khoe những bài kiểm tra được điểm cao. Những lúc ấy chị Tuyết thấy hạnh phúc ngập tràn trong lòng mình. Chia sẻ về hạnh phúc của mình, chị Tuyết nói: “Hai vợ chồng mình khuyết tật nhưng đến với nhau bằng tình yêu thương chân thành, nuôi dưỡng bé Thảo Nguyên nên người là niềm hạnh phúc duy nhất hiện tại. Dù cuộc sống còn lắm gian khó nhưng vợ chồng mình tin rằng sẽ vượt qua tất cả”.

Bà con lối xóm rất quý vợ chồng anh Hòa nên cách khoảng 2 hoặc 3 tháng lại góp nhau mua tặng ít kg gạo. Bạn bè người thân thì cho vài chục ngàn. Đó là tấm lòng, là nguồn động viên tinh thần rất lớn để anh chị cố gắng vươn lên xây dựng cuộc sống. nhiều người dân luôn lấy tấm gương của anh chị để soi mình trong cuộc sống, mỗi khi gia đình nào có chuyện gì xích mích, họ lại nghĩ đến vợ chồng anh Hòa chị Tuyết để rồi tự nhủ bản thân mình cũng phải sống yêu thương nhau như thế. Chính vì tấm gương gia đình hòa thuận của anh chị như thế, nên bà con đã thương vì hoàn cảnh tật nguyền, lại khâm phục hơn vì nghị lực vươn lên trong cuộc sống và cả nhân cách sống. Và ai cũng bảo ông trời dẫu sao vẫn còn có mắt khi để anh chị đến với nhau trong niềm hạnh phúc này.

Anh Hòa ngồi bên cạnh nắm chặt tay chị Tuyết rơm rớm nước mắt. Chia tay gia đình, chúng tôi vẫn còn vọng mãi trong mình lời đáp cầu hôn của chị Tuyết: “Em sẽ là đôi mắt cho anh, anh sẽ là đôi chân của em. Hai chúng mình sẽ có một gia đình hạnh phúc, anh nhỉ?”

Hữu Tiến

Link nội dung: https://phuongnam.vanhoavaphattrien.vn/chuyen-co-tich-giua-doi-thuong-cua-doi-vo-liet-chong-mu-a8174.html