Cái rốn Hoài Ân xưa, An Lão hôm nay là thị trấn Xuân Phong nằm giữa lòng xã An Hòa, một điểm hội tụ văn hóa của Bình Định. Ngày xưa ở đây có rạp diễn tuồng (Hát bội), hát Bài chòi, có sân bóng đá quy mô cho cầu thủ trong và ngoài huyện thi tài vào ngày chủ nhật, có nhà máy giấy, nhà máy in bạc tín phiếu, có Đài phát thanh toàn miền Trung. Phải chăng cảm xúc từ nét đẹp ấy mà các bậc túc nho ngày xưa đã viết ra câu đối thật hay treo ở đình làng Xuân Phong.
Xuân Sơn cẩm tú sinh nhân kiệt
Phong thổ chung linh khả hậu sinh.
Nhà đại trí thức Phạm phu Tiết dịch.
Núi Sơn xinh đẹp sinh người tài giỏi
Đất lành Xuân Phong nối tiếp truyền thống này.
Từ nhỏ tôi được học văn hóa ở trường tiểu học Xuân Phong và khi đang học cấp hai thì được tuyển vào học trường nghệ thuật (nhạc và kịch) do tỉnh đội Bình Định tổ chức. Lúc đầu trường đóng ở Phù Ly, huyện Phù Mỹ, sau một thời gian vì để tránh bom của giặc Pháp, trường phải dời vào chợ Gồm (Phù Cát), được ít lâu lại tránh bom nên phải dời về tận Gò Bồi, một thị trấn rất đẹp, rất yên bình, nơi sinh ra Danh nhân Đào Tấn và ông vua thơ tình Xuân Diệu; gần đó là quê hương của danh nhân Nguyễn Diêu.
Chúng tôi kết thúc khoa học tại Gò Bồi, rồi được đưa về đại đội độc lập 103, đơn vị do ông Tô Đình Cơ (sau này là Chủ tịch UBND tỉnh Bình Định), làm đại đội trưởng. Ông Cơ là người vô cùng yêu thích văn nghệ (1) nên đã tổ chức một đội văn nghệ chuyên nghiệp ngay trong đại đội mình và chúng tôi (đa số là thiếu sinh quân) chuyên nghề đàn, hát phục vụ cho đơn vị và bà con ở nơi đóng quân. Có thời kỳ đơn vị tôi được điều về đóng quân ở hai xã Phước Hòa và Phước Thuận, nơi có nhà thờ thiên chúa giáo, ở đó có dàn kèn đồng thỉnh thoảng tấu lên âm vang cả một vùng. Chúng tôi như lũ trẻ tò mò đến xem nhà thờ và nghe nhạc, nhưng lúc đó chẳng ai biết đây là Làng Sông, là Nước Mặn - nơi các Thừa sai, các nhà truyền giáo phương Tây như Cristophoro, Borri, các ông Buzomi, Pina đã từng sống và sáng tạo ra Chữ Quốc ngữ cho người Việt Nam.
Về thăm Phước Hòa lần này, tôi nhớ đến cái chết bất ngờ của một người lính trong đại đội 103 của tôi. Tên anh là Thùy, một chiến sĩ rất trẻ quê ở huyện Phù Mỹ. Anh rất yêu văn nghệ nên thường gần gũi và giúp đỡ chúng tôi lúc biểu diễn. Một buổi chiều mùa hè nóng bức, anh Thùy mặc quần đùi, từ trong doanh trại chạy băng ra lao xuống dòng sông và mất hút! Được tin, ban chỉ huy đại đội ra lệnh cho những người bơi lặn giỏi nhảy xuống sông cứu đồng đội của mình. Hai người rồi ba, bốn người bơi lặn tìm kiếm hàng giờ mà không thấy, mãi tới xế chiều tối mới vớt xác anh lên, người đã bầm tím do ngâm nước quá lâu! Hóa ra anh nhảy trúng vào chỗ nước xoáy rất sâu và bị nước nhấn chìm tận dưới đáy lòng sông!
Đơn vị lập tức báo tin cho gia đình anh Thùy và chuẩn bị lễ tang cho anh vào sáng hôm sau. Chúng tôi thương anh mà ai cũng không cầm được nước mắt. Anh Thùy được chôn trên một mô đất cao ở giữa cánh đồng rất rộng trong xã Phước Hòa. Người yêu của anh Thùy, một cô gái trẻ đẹp cùng quê Phù Mỹ, đã kịp đến chịu tang cho anh. Cô lăn ra khóc tưởng chừng như đứt hơi tắt tiếng và từ tối hôm đó, cô chỉ nằm trên mộ người yêu mà than khóc thật thảm thương! Còn tôi, không sao ngủ được vì một phần thương đồng đội, một phần sợ ma. Hồi còn nhỏ tôi sợ ma hơn sợ cọp, vì thế mà thường bị đơn vị phê bình, góp ý nhiều lần: “Lính mà sợ ma?”
Trở lại chốn xưa sau hơn nửa thế kỷ, tôi không sao nhớ được chính xác nơi mình đã học nghệ thuật, cũng như nơi đã ở trong những ngày tháng đóng quân, vì cảnh quan thay đổi quá nhiều. Chúng tôi đến thăm di tích Làng Sông – nơi in Chữ Quốc ngữ đầu tiên, nhưng cũng chỉ còn là một mảnh đất trống trơn không còn dấu tích vì đã mấy trăm năm vật đổi sao dời! Tôi đi dọc theo bờ con sông Gò Bồi xinh đẹp để tìm lại kỷ niệm xưa, thời kỳ học nhạc ở đây, nhưng tất cả đã đổi thay, chỉ có dòng sông vẫn êm đềm chảy ra biển cả, nhưng dường như thuyền bè không tấp nập như ngày xưa. Vì ngày xưa Gò Bồi – Nước Mặn là phố thị, là bến giao thương vùng Nam Á. Thuyền bè và người câu cá, bắt cá trên sông cũng không còn nhiều như xưa. Hai bến bờ sông Gò Bồi đã trở thành phố thị, cũng mấy xưởng đàn không còn nữa. Cách đây 60 năm, ở Bình Định có hai xưởng đàn nổi tiếng là Bồng Sơn và Gò Bồi. Hai xưởng đàn này đã cung cấp cho bộ đội và nhân dân trong tỉnh, trong Đoàn LK5 hàng ngàn chiếc đàn Măngđôlin, Violon, Panjo, Ghi ta… Thời kháng chiến chống Pháp, phong trào văn nghệ trong bộ đội và nhân dân vô cùng sôi nổi. Tiếng đàn Măngđôlin rộn rã khắp nơi, ở đâu cũng đàn, cũng hát, cũng diễn kịch, hô Bài chòi và Hát bội. Đúng là “Tiếng hát át tiếng bom”. Sở dĩ lớp nghệ thuật của chúng tôi phải di chuyển ba lần vì chạy bom Pháp cho đến mãi sau này tôi mới biết vì sao phải chạy từ Phù Mỹ, Phù Cát vào tận Gò Bồi mới trụ được, là vì vùng Gò Bồi không bị Pháp ném bom, phải chăng vùng này có nhiều nhà thờ thiên chúa giáo, nơi các nhà truyền giáo phương Tây đến truyền đạo và sáng tạo ra Chữ Quốc ngữ để làm phương tiện truyền giáo tốt hơn, nhanh hơn.
Nhân đây cũng cần nói rõ thêm là hầu hết các Thừa sai đến Nước Mặn-Gò Bồi là người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha và Italy chứ không có người Pháp thực dân, mãi đến thế kỷ 18 Alécxăng Đờ-rốt (người Pháp) mới tới Việt Nam tiếp tục việc hoàn thiện Chữ Quốc ngữ, nên người ta cứ nghĩ ông là người sáng tạo ra Chữ Quốc ngữ cho Việt Nam.
Trở lại chốn xưa lần này, tôi còn có mục đích là viếng thăm nhà tưởng niệm thi sĩ Xuân Diệu, ân nhân của tôi, người không những giúp đỡ tôi trong nghề nghiệp văn chương mà còn đi hỏi vợ cho tôi tại Hà Nội. Số là trong nhưng năm học văn khoa ở khu sơ tán Tràng Dương, Thái Nguyên, tôi có yêu cô Bích Ngọc, người Hà Nội, sinh viên khoa hóa ở gần đó. Đến khi tốt nghiệp trở về Hà Nội, tôi được nhận ngay vào Vụ văn hóa quần chúng, Bộ Văn hóa, tiếp tục hoạt động phong trào sân khấu. Có sự nghiệp rồi, tôi muốn lấy vợ, nhưng không biết nhờ ai đi hỏi vợ cho, vì tôi không có gia đình trên miền Bắc. Nhà văn Nguyễn Thành Long cùng quê rất thương tôi, khuyên tôi đến nhờ nhà thơ Xuân Diệu đi hỏi vợ giúp tôi. Tôi đến nhà 24 Cột Cờ (nay là đường Điện Biên phủ) gặp nhà thơ Xuân Diệu và thưa:
- Em có người yêu ở Hà Nội, đã đồng ý cưới nhưng em chẳng có gia đình trên miền Bắc, nên nhờ anh là người đồng hương đi hỏi vợ giúp em…
Nhà thơ Xuân Diệu gật đầu đồng ý và bảo tôi:
- Em nên mời cả anh Huy Cận, vừa là người có uy tín, vừa là Thứ trưởng của em cùng đi với anh thì rất tốt.
Tôi vội bước lên tầng hai (hai nhà thơ lớn ở cùng một nhà) gặp nhà thơ Huy Cận và nói ý kiến của nhà thơ Xuân Diệu. Thứ trưởng Huy Cận đồng ý ngay và hẹn ngày cùng Xuân Diệu đi hỏi vợ cho tôi. Cuối chiều thứ 7 tuần đó, hai nhà thơ lớn đi ôtô đến nhà vợ tôi ở ngõ 2 phố Lê Văn Hưu, Hà Nội. Gia đình vợ tôi tiếp hai nhà thơ rất nồng hậu, nhưng ý chừng chưa muốn gả ngay, vì vợ tôi còn đang học năm cuối. Nhà thơ Xuân Diệu nói: “Dân gian có câu: Lấy vợ thì lấy liền tay chớ để lâu ngày lắm kẻ dèm pha” . Bố mẹ vợ tôi và các anh trong gia đình đều đồng ý cho tôi tổ chức cưới trong tháng cuối năm 1967. Rất tiếc là ngày cưới của chúng tôi, hai nhà thơ Xuân Diệu và Huy Cận đều đi công tác xa, nên Thứ trưởng Bộ Văn hóa Nguyễn Đức Quỳ, người cũng rất thương tôi, đã đứng ra làm chủ hôn cho lễ cưới. Một đám cưới hết sức giản dị được tiến hành ngay tại nhà vợ tôi và người dự là một số sinh viên cùng lớp văn 8 và mấy nghệ sĩ ở Vụ văn hóa quần chúng, trong đó có nhà thơ Phùng Quán đọc tặng tôi một bài thơ thật hay…
Đạo lý Việt Nam: “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, “Uống nước nhớ nguồn” , không bao giờ tôi quên ơn nhà thơ Xuân Diệu. Lần này về lại chốn xưa- Gò Bồi, tôi đến một ngôi chùa cổ ở Làng Sông hái 10 bông hoa đại có mùi hương ngào ngạt đem đến đặt trên bàn thờ Xuân Diệu và thắp nhang vái hương hồn ông, một thiên tài thơ đất Việt. Xong, tôi đi xem hầu hết những hình ảnh, tư liệu được trưng bày tại nhà tưởng niệm Xuân Diệu. Tôi chợt nhớ năm nay tròn 100 năm ngày sinh của ông 1916-2016. Tôi nói với người thủ từ, đúng hơn là người trông coi nhà lưu niệm Xuân Diệu:
- Tất cả những gì đang trưng bày tại ngôi nhà này thật quá đơn sơ, quá nhỏ bé đối với một nhà thơ lớn, một danh nhân văn hóa có tầm cỡ thế giới.
Đừng để ngôi nhà tưởng niệm một thi nhân nổi tiếng của dân tộc thành một ngôi chùa Bà Danh, một ngôi chùa không có tiếng chuông, tiếng mõ và không có người viếng thăm hương khói! Hãy đến xem Bảo tàng Puskin ở Nga, Bảo tàng Gớttơ ở Đức, Eminecu ở Rumani v.v… Ở những nơi đó đều là những “địa chỉ đỏ” thu hút hàng triệu người khắp hành tình này, mà muốn thu hút người xem thì phải nghệ thuật hóa, sân khấu hóa thơ Xuân Diệu. Muốn được như vậy, những cơ quan hữu trách, đặc biệt là các cơ quan văn hóa, văn học nghệ thuật ở Bình Định và cả ở Trung ương nữa, phải cùng chung tay góp sức xây dựng khu tưởng niệm Xuân Diệu cho xứng tầm, thành một điểm đến của những người yêu thơ trong cả nước và cả người nước ngoài, tức là người ta đến đây ngoài xem những hiện vật sinh động phong phú về cuộc đời của một thi nhân nổi tiếng, còn được nghe kể về cuộc đời huyền thoại của một ông vua thơ tình, đồng thời được đọc thơ, nghe thơ, xem biểu diễn thơ Xuân Diệu qua nhiều loại hình nghệ thuật, từ dân gian đến đương đại. Dĩ nhiên khâu tuyên truyền quảng bá cũng rất quan trọng. Nhà tưởng niệm Xuân Diệu là một điểm đến của khách thập phương của nhiều người yêu thơ.
Tôi hình dung một chuỗi sự kiện, một tour du lịch văn hóa tương lai sẽ diễn ra bắt đầu từ Bảo tàng Quang Trung nối liền với Đàn tế trời đất, qua các Tháp Chăm cổ kính, rồi đến với quê hương Hát bội Đào Tấn, tiếp nối là di tích Nước Mặn – Chữ quốc ngữ, tiếp theo Nhà bảo tàng Xuân Diệu và kết thúc là Đồi thi nhân Hàn Mặc Tử.
Thật khó ở địa phương nào có được một không gian văn hóa liên hoàn, độc đáo và hấp dẫn như ở Bình Định. Rõ ràng ngồi trên mỏ vàng mà không biết mình có vàng hoặc biết rồi nhưng không biết cách khai thác để làm giàu. Dù sao tôi vẫn hy vọng và chờ đợi ở những con người mới, tư duy mới, dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm như Nghị quyết Trung ương 12 của Đảng đã nhấn mạnh về yếu tố con người.
Người đánh trống chầu Hát bội nổi tiếng nhiều năm làm Chủ tịch Hội bảo trợ tuồng và dân ca.
Quy Nhơn đầu năm 2016
GS Hoàng Chương