Nghệ nhân dân tộc Khơ Mú chế tác nhạc cụ. Ảnh: Svhttdlsonla
Thực hiện thông tư số 04/2010/TT-BVHTTDL của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; Kế hoạch số 96/KH-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La về kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Sơn La năm 2015. Với phương châm nhận diện đầy đủ văn hóa phi vật thể của 02 dân tộc Xinh Mun, Khơ Mú. Năm 2015 Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã tập trung chỉ đạo, triển khai thực hiện công tác kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể tại 24 bản trên địa bàn 4 huyện.
Theo số liệu thống kê hiện Sơn La có 48 bản người Khơ Mú sinh sống với hơn 1.700 hộ; hơn 9.700 người, chiếm 1,2 % dân số của tỉnh, cư trú ở huyện Yên Châu, Mai Sơn, Mường La, Quỳnh Nhai, Thuận Châu, Sông Mã. Trước kia sống chủ yếu dựa vào nương rẫy, săn bắt và hái lượm, các họ thường mang tên một loài thú, một loài chim hay một thứ cây, mỗi dòng họ coi thú, chim, cây cối là tổ tiên ban đầu của mình (tô tem). Họ kiêng giết thịt và ăn thịt các loại động, thực vật này; Mỗi dòng họ có huyền thoại kể về lai lịch của tổ tiên chung, người cùng dòng họ coi nhau là anh em ruột thịt.
Có 65 bản người Xinh Mun với 4.200 hộ; hơn 15.600 người, chiếm 2 % dân số của tỉnh; Dân tộc Xinh Mun ở tỉnh Sơn La có 2 ngành: Xinh Mun nghẹt và Xinh Mun dạ, cư trú chủ yếu ở vùng biên giới Việt - Lào thuộc huyện Yên Châu. Ngoài ra, còn có một số sống rải rác ở các huyện Mai Sơn, Thuận Châu, Mường La. Người Xinh Mun còn có tên khác gọi là Puộc, Pụa.

Chiêng nhạc cụ chính dùng trong Lễ hội của dân tộc Xinh Mun. Ảnh: Svhttdlsonla
Việc tiến hành điền dã, kiểm kê nhận diện, xác định giá trị, phân loại, lập danh mục bao gồm: Phong tục, tập quán, âm nhạc, diễn xướng dân gian, nghề thủ công truyền thống, lễ hội, tri thức dân gian…. Đã được xác định khá rõ đối với hai dân tộc Xinh Mun, Khơ Mú trên địa bàn tỉnh;
Trước mắt Ngành Văn hoá, Thể thao và Du lịch tập chung chỉ đạo các đơn vị trực thuộc, chủ động phối hợp với các đơn vị liên quan tập trung triển khai một số nội dung sau: Tiếp tục tổ chức tập huấn hạt nhân văn hoá, văn nghệ nòng cốt, xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao sâu rộng, làm phong phú đời sống văn hoá ở cơ sở, tạo ra môi trường văn hóa lành mạnh, ổn định cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, phục vụ đắc lực công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện có hiệu quả công tác “Phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số miền núi”. Chỉ đạo đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”, xây dựng bản văn hóa, gia đình văn hóa; Vận động nhân dân tham gia xây dựng nông thôn mới, góp phần thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9, khoá XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước. Phối hợp với Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng tỉnh triển khai, chọn điểm xây dựng điểm sáng văn hóa trên tuyến biên giới gắn với công tác bảo vệ chủ quyền an ninh tuyến biên giới. Biên soạn tài liệu tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, vận động từ bỏ thói quen lạc hậu, hủ tục, luật tục không còn phù hợp như: Sinh hoạt, ăn uống chưa hợp vệ sinh, bình đẳng giới, sinh con thứ 3, tảo hôn, chữa bệnh bằng cách mời thầy cúng ….
Trong thời gian tới Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch tiếp tục tham mưu cho UBND tỉnh xây dựng kế hoạch thực hiện Quyết định số 1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011 của Thủ tướng Chính phủ về Phê duyệt Đề án “Bảo tồn, phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số Việt Nam đến năm 2020. Từ đó tham mưu cho UBND, HĐND tỉnh đưa ra giải pháp bảo tồn các giá trị văn hoá tốt đẹp có nguy cơ bị mai một của các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh. Lập hồ sơ khoa học di sản văn hóa phi vật thể tiêu biểu đề nghị Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Theo Dân Tộc Việt