Hát chầu văn - linh hồn của nghi lễ hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu

Giữa dòng chảy của đời sống hiện đại, nơi âm thanh của đô thị ngày đêm rộn ràng, vẫn có những tiếng hát vang lên ngân nga từ các ngôi đền, phủ cổ kính – đó là hát chầu văn, một loại hình nghệ thuật dân gian đặc sắc gắn liền với nghi lễ hầu đồng trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ – Tứ Phủ của người Việt.

3fnh-1-1714704875837-1760326895.jpg
Nghệ sĩ Hoài Thanh say sưa trình diễn những làn điệu chầu văn. Ảnh: CAND Online

Hát chầu văn không đơn thuần là âm nhạc lễ nghi, mà là ngôn ngữ của tâm linh, là phương tiện để con người kết nối với thế giới siêu hình, gửi gắm niềm tin, ước nguyện và lòng thành kính đối với các vị Thánh Mẫu, Quan Lớn, Chầu Bà, Ông Hoàng, Cô Bé, Cậu Bé… Những câu văn, tiếng đàn, nhịp phách hòa quyện cùng hương trầm khói quyện, khiến không gian nghi lễ trở nên huyền ảo, linh thiêng và tràn đầy cảm xúc.

Hát chầu văn (còn gọi là văn chầu hoặc hát văn) được hình thành và phát triển song hành với tín ngưỡng thờ Mẫu - một hình thức tín ngưỡng bản địa của người Việt, tôn vinh vai trò người Mẹ, biểu tượng cho sự sinh sôi, che chở và phúc lành.

Theo các nhà nghiên cứu, hát văn ra đời vào khoảng thế kỷ XV - XVI, phát triển mạnh mẽ vào thời Lê - Nguyễn, và đạt tới đỉnh cao trong thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Loại hình này kết hợp nhuần nhuyễn thơ ca dân gian, âm nhạc truyền thống và nghệ thuật diễn xướng, tạo nên một chỉnh thể hoàn mỹ, vừa mang giá trị thẩm mỹ, vừa có chức năng tâm linh sâu sắc.

Một buổi hát chầu văn thường diễn ra trong không gian linh thiêng của điện Thánh. Trung tâm của nghi lễ là cung văn - người vừa hát, vừa gảy đàn nguyệt, giữ vai trò dẫn dắt toàn bộ nghi lễ. Cùng với đó là phách, trống, sáo và đôi khi có đàn nhị, tạo nên nhịp điệu uyển chuyển, khi khoan thai trầm lắng, khi dồn dập hối thúc theo từng giá hầu.

Lời văn chầu thường được sáng tác theo thể thơ lục bát hoặc song thất lục bát, giàu hình ảnh, giàu cảm xúc. Nội dung ca ngợi công đức của Thánh, kể lại tích xưa, đồng thời gửi gắm những ước nguyện về quốc thái dân an, gia đạo bình an, mưa thuận gió hòa.

Nếu hầu đồng là nghi thức trung tâm của tín ngưỡng thờ Mẫu - nơi thanh đồng hóa thân vào các vị Thánh - thì hát chầu văn chính là linh hồn của nghi lễ, là sợi dây vô hình kết nối giữa người và Thánh, âm và dương, trần gian và cõi thiêng.

Âm nhạc chầu văn mở đầu cho mỗi giá hầu bằng những âm thanh trầm bổng, khi nhẹ nhàng tha thiết, khi hùng tráng uy nghi. Chính tiết tấu, nhịp phách, giai điệu và lời ca đã dẫn dắt tâm hồn người tham dự vào trạng thái tĩnh tại, giúp thanh đồng “nhập Thánh” trong sự trang nghiêm và thành kính.

Cung văn không chỉ hát bằng giọng, mà còn hát bằng tâm. Nhịp phách dồn dập, tiếng đàn ngân rung, lời ca ngân dài khiến người nghe dễ dàng chìm vào cảm xúc thăng hoa, hòa cùng không khí huyền nhiệm của nghi lễ. Đó là sự thăng hoa của nghệ thuật và tâm linh - nơi con người cảm thấy gần gũi, được che chở, an lành.

Mỗi bài văn chầu là một câu chuyện về Thánh Mẫu, về những vị thần đã giúp dân giúp nước, mang lại phúc lộc, an khang cho muôn dân. Hát văn vì thế không chỉ là lời ca, mà là nghi thức giao tiếp tâm linh, là cách con người gửi lời tri ân, cầu khấn, thỉnh cầu sự bảo hộ thiêng liêng từ thế giới siêu nhiên.

Không chỉ mang ý nghĩa tôn giáo, hát chầu văn còn là biểu tượng của bản sắc văn hóa Việt Nam. Trong từng câu hát, từng giai điệu là tiếng nói của dân tộc, là hồn cốt của dân gian được kết tinh qua bao thế hệ.

Hát chầu văn là loại hình nghệ thuật tổng hợp, kết hợp hài hòa giữa thơ ca, âm nhạc, múa, diễn xướng và trang phục. Giai điệu của hát văn có sự phong phú về tiết tấu: văn dọc, văn xuôi, văn tiễn Thánh, văn công đồng, mỗi làn điệu mang sắc thái riêng, thể hiện đúng thần thái của từng giá đồng.

Người hát văn giỏi là người biết đưa cảm xúc và kỹ thuật hòa làm một, biết “nâng đồng”, biết khi nào trầm, khi nào bổng để “gọi Thánh” và “tiễn Thánh”. Chính vì thế, cung văn không chỉ là nghệ sĩ mà còn là người mang sứ mệnh tâm linh, được tín đồ kính trọng.

Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ - Tứ Phủ tôn vinh người Mẹ vũ trụ, đại diện cho thiên nhiên, đất, nước và nhân sinh. Hát chầu văn góp phần diễn tả trọn vẹn triết lý đó, giúp con người hướng thiện, sống nhân ái, tin vào điều tốt lành.

Năm 2016, UNESCO đã ghi danh “Thực hành tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Phủ của người Việt” là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, trong đó hát chầu văn là yếu tố trung tâm, là “ngôn ngữ” diễn đạt linh hồn của toàn bộ di sản này.

Ngày nay, hát chầu văn không chỉ xuất hiện trong các nghi lễ mà còn được đưa lên sân khấu, các chương trình giao lưu, liên hoan văn hóa dân gian. Tại những không gian linh thiêng như Phủ Dầy (Nam Định), Phủ Tây Hồ (Hà Nội), Đền Sòng (Thanh Hóa) hay Đền Ông Hoàng Mười (Nghệ An), du khách trong và ngoài nước đều có thể chiêm ngưỡng những buổi hầu đồng - hát văn được tái hiện công phu, sinh động.

Nhờ đó, hát chầu văn đã góp phần quan trọng trong việc quảng bá hình ảnh Việt Nam - đất nước của văn hóa và tâm linh, nơi con người sống chan hòa giữa tín ngưỡng và nghệ thuật.

Trải qua thời gian, hát chầu văn từng có lúc bị mai một, song nhờ tâm huyết của các nghệ nhân và sự quan tâm của Nhà nước, loại hình này đang được khôi phục mạnh mẽ. Nhiều câu lạc bộ hát văn, trung tâm nghiên cứu văn hóa dân gian, và lớp học cung văn trẻ đã ra đời tại Hà Nội, Nam Định, Hải Phòng, Thanh Hóa, Nghệ An…

Những nghệ nhân như NSƯT Thanh Long, nghệ nhân Nguyễn Văn Khang, Bùi Trọng Lăng… đã dành cả cuộc đời để sưu tầm, bảo tồn và truyền dạy hát văn cho thế hệ kế cận. Họ chính là “người giữ lửa” cho di sản văn hóa phi vật thể độc đáo này.

Không có hát văn, buổi hầu đồng sẽ mất đi linh hồn. Mỗi câu hát, mỗi nhịp đàn đều chứa đựng cảm xúc thiêng liêng, là “lời nói” của người trần gửi tới Thánh, là “tiếng vọng” từ cõi thiêng truyền về nhân gian.

Trong tiếng đàn nguyệt ngân vang, thanh đồng khoác lên mình xiêm y rực rỡ, hóa thân thành các giá Thánh: uy nghiêm khi là Quan Lớn, dịu dàng khi là Cô Bé, oai phong khi là Ông Hoàng, hiền từ khi là Thánh Mẫu. Mọi động tác, lời ca, ánh mắt đều hòa quyện, tạo nên một không gian biểu diễn đặc biệt – vừa là nghi lễ tôn giáo, vừa là một sân khấu nghệ thuật dân gian đầy sức quyến rũ.

Hát chầu văn vì thế không chỉ “diễn” Thánh mà còn diễn tả khát vọng sống, niềm tin, tình yêu quê hương đất nước của con người Việt Nam qua bao thế hệ. Dù ở thời đại nào, tiếng hát văn vẫn cất lên giữa khói hương nghi ngút, nhắc nhớ mỗi người về cội nguồn văn hóa dân tộc.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi nhịp sống hiện đại cuốn con người xa dần khỏi những giá trị truyền thống, việc bảo tồn hát chầu văn càng trở nên cấp thiết. Không chỉ cần sự bảo trợ của Nhà nước và các tổ chức văn hóa, mà còn cần ý thức tự nguyện của cộng đồng, đặc biệt là thế hệ trẻ – những người sẽ tiếp nối và gìn giữ di sản này.

Nhiều dự án, liên hoan hát văn và hầu đồng được tổ chức thường niên tại các tỉnh, thành; nhiều buổi biểu diễn được đưa vào chương trình du lịch tâm linh, vừa phục vụ du khách, vừa giáo dục cộng đồng về giá trị của di sản. Đó là minh chứng cho sức sống bền bỉ, khả năng thích ứng linh hoạt của hát chầu văn trong dòng chảy văn hóa hiện đại.

Trải qua bao biến thiên lịch sử, hát chầu văn vẫn tồn tại, vẫn ngân vang như một bản trường ca của tâm linh Việt. Đó không chỉ là di sản nghệ thuật, mà còn là chứng tích sống động cho tinh thần nhân văn, cho niềm tin hướng thiện và sức sáng tạo của con người Việt Nam.

Giữa đời sống đô thị hôm nay, khi ta bắt gặp tiếng hát văn vang lên từ một buổi lễ nhỏ ở Phủ Tây Hồ hay một chương trình giao lưu văn hóa, lòng người như lắng lại – để thấy trong từng lời ca, từng nhịp phách là hơi thở của đất nước, của cội nguồn và của chính tâm hồn Việt.

Hát chầu văn – linh hồn của nghi lễ hầu đồng – vẫn sẽ mãi ngân vang, kết nối con người với Thánh thần, quá khứ với hiện tại, và nghệ thuật với niềm tin. Đó là vẻ đẹp trường tồn, là hồn thiêng sông núi trong văn hóa Việt Nam.

Nguyễn Danh Hòa, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa và Phát triển

Link nội dung: https://phuongnam.vanhoavaphattrien.vn/hat-chau-van-linh-hon-cua-nghi-le-hau-dong-trong-tin-nguong-tho-mau-a30403.html