Nhưng làm thế nào để đưa những giá trị văn hóa đó thành sản phẩm mang lại giá trị kinh tế, thu hút đông đảo du khách là việc không đơn giản. Ðây chính là bài toán cần được giải đáp, nếu muốn đưa du lịch văn hóa trở thành ngành công nghiệp văn hóa và công nghiệp văn hóa trở thành nguồn lực phát triển bền vững du lịch Việt Nam. Thực tiễn cho thấy, du lịch chính là phương thức, là con đường mà nhiều quốc gia đang đầu tư, khai thác yếu tố kinh tế của các giá trị văn hóa, để phát huy sức mạnh mềm của văn hóa quốc gia, dân tộc. Đồng thời, tài nguyên văn hóa cũng chính là nguồn lực phát triển kinh tế. Bài viết này hy vọng sẽ cung cấp một góc nhìn về khai thác giá trị văn hóa tạo động lực phát triển kinh tế du lịch Việt Nam thời gian tới.
Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế
Từ khi Đảng lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới, tư duy về văn hóa, về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế đã có sự thay đổi. Vai trò của văn hóa đối với sự phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng đã được nhìn nhận một cách toàn diện và thấu đáo hơn. Văn hóa được xem là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu, vừa là động lực cho sự phát triển kinh tế. Bản chất của văn hóa là sự sáng tạo hướng tới các giá trị nhân văn, vì ấm no, hạnh phúc của con người và sự thịnh vượng của quốc gia - đây cũng chính là mục tiêu của phát triển nói chung và phát triển kinh tế nói riêng.
Có thể khẳng định, văn hóa là động lực trực tiếp cho sự phát triển kinh tế. Sự phát triển của các ngành công nghiệp văn hóa đã và đang mang lại kỳ vọng một hướng phát triển nhanh, bền vững của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Công nghiệp văn hóa là một tập hợp các ngành phát triển dựa trên sự khai thác tổng hợp các yếu tố: sáng tạo, khoa học - công nghệ, thị trường và vốn văn hóa. Thay vì khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên hữu hạn như nhiều ngành nghề khác, ngành công nghiệp văn hóa khai thác nguồn tài nguyên vô hạn là sức sáng tạo của con người. Công nghiệp văn hóa chính là một biểu hiện tập trung của sự gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa và kinh tế trong phát triển. Những quan điểm của Đảng về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế là những vấn đề lý luận rất mới, có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn sâu rộng, để đảm bảo sự hài hòa trong phát triển văn hóa và tăng trưởng kinh tế, vì mục tiêu phát triển bền vững đất nước.
Vai trò của kinh tế du lịch đối với nền kinh tế Việt Nam
Giai đoạn từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới đất nước đến nay (1986), ngành Du lịch Việt Nam chuyển mình với những bước đột phá quan trọng cả về chủ trương, chính sách và hành động, đạt những kết quả ấn tượng. Hiện nay, ngành Du lịch đang bước vào giai đoạn phát triển ở tầm cao mới với nhiều thời cơ và khó khăn, thách thức mới. Sự phát triển của ngành Du lịch đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
Kinh tế du lịch là một hệ thống phức hợp những quan hệ và hoạt động kinh tế của các chủ thể tham gia trong quá trình tổ chức sản xuất, cung ứng và tiêu dùng những sản phẩm, dịch vụ du lịch, nhằm đem lại lợi ích kinh tế, xã hội cho các bên tham gia và tạo động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Trong quá trình hội nhập, kinh tế du lịch đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế đất nước, góp phần vào tiến trình hội nhập quốc tế và thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở. Trong những năm gần đây, tỷ trọng kinh tế du lịch trong nền kinh tế quốc dân ngày càng cao, nên việc phát triển kinh tế du lịch là điểm tăng trưởng mới của nền kinh tế Việt Nam.
Hiện nay, kinh tế du lịch đóng góp khoảng trên 9,2% vào GDP cả nước, tạo 2,9 triệu việc làm, trong đó có 927 nghìn việc làm trực tiếp. Tính chung trong giai đoạn 2015-2019, ngành Du lịch đạt tốc độ tăng trưởng cao 22,7%. Thành tựu và nỗ lực của du lịch Việt Nam đã được thế giới đánh giá cao, Tổ chức Du lịch thế giới thuộc Liên hợp quốc (UNTWO) xếp Việt Nam đứng thứ 6 trong 10 quốc gia có tốc độ tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới. Năm 2019, du lịch Việt Nam cũng đạt nhiều giải thưởng danh giá mang tầm vóc châu lục và thế giới. Dưới đây là một số vai trò của kinh tế du lịch trong sự phát triển của nền kinh tế nói chung:
Thứ nhất, kinh tế du lịch góp phần tăng thu nhập quốc dân thông qua thu ngoại tệ, đóng góp vai trò to lớn trong cân bằng cán cân thanh toán quốc tế. Dịch vụ du lịch có giá trị xuất khẩu cao và hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất trong các hoạt động xuất khẩu dịch vụ, đặc biệt là theo góc độ thu ngoại tệ và thu hút lao động, tạo việc làm. Xuất nhập khẩu dịch vụ cũng có ảnh hưởng lớn đến cán cân thanh toán của toàn bộ nền kinh tế.
Thứ hai, kinh tế du lịch góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tham gia mở rộng thị trường nội địa và quốc tế. Xu hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế trên thế giới hiện nay cho thấy, giá trị của các ngành Dịch vụ ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong tổng sản phẩm xã hội. Do vậy, khi các nhà kinh doanh đi tìm hiệu quả của đồng vốn thì du lịch là một lĩnh vực kinh doanh hấp dẫn so với nhiều ngành kinh tế khác. Kinh tế du lịch đem lại tỷ suất lợi nhuận cao, vốn đầu tư vào du lịch tương đối ít so với ngành công nghiệp nặng và giao thông vận tải, mà khả năng thu hồi vốn nhanh, kỹ thuật không phức tạp, mức độ rủi ro thấp. Đặc biệt, thông qua hợp tác quốc tế và khu vực trong du lịch, các quốc gia có thể tận dụng lợi thế để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Do vậy, phát triển kinh tế du lịch được coi là một kênh khá quan trọng trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Kinh tế du lịch phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của các ngành kinh tế khác vì sản phẩm du lịch mang tính liên ngành có quan hệ đến nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế. Xuất phát từ nhu cầu này của du khách mà ngành Du lịch không ngừng mở rộng hoạt động thông qua mối quan hệ liên ngành, liên vùng và liên quốc gia. Do đó, kinh tế du lịch tham gia mở rộng thị trường nội địa và quốc tế cho mỗi quốc gia.
Thứ ba, kinh tế du lịch góp phần tăng cường giao lưu, hội nhập của quốc gia với khu vực và quốc tế. Sự tác động qua lại của các yếu tố như: điều kiện tự nhiên, tâm lý xã hội, môi trường sống, nhu cầu du lịch… khiến cho kinh tế du lịch luôn có sự vận động phát triển không ngừng. Chính tư tưởng chấp nhận cái cũ, bó buộc trong những mô-típ quen thuộc, không chịu đổi mới đã tạo ra sự thất bại của kinh tế du lịch ở một số quốc gia. Từ đó, đặt ra yêu cầu đối với phát triển kinh tế du lịch là phải mở rộng liên kết, hợp tác giữa các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Đối với những nhà cung ứng sản phẩm, dịch vụ du lịch sở tại thì cần mở rộng các mối quan hệ để học hỏi, trao đổi kinh nghiệm nhằm tạo ra những sản phẩm phong phú, đa dạng, có sự khác biệt và tận dụng được lợi thế so sánh. Đối với cộng đồng dân cư tại điểm du lịch, thông qua hoạt động kinh tế du lịch, cộng đồng cư dân cũng được giao lưu và tiếp biến các giá trị văn hóa của các đối tượng khác nhau đến nơi đây.
Mối quan hệ giữa văn hóa và du lịch
Văn hoá mang nội hàm rộng với rất nhiều cách tiếp cận khác nhau, liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người được lưu truyền từ đời này sang đời khác thông qua các chuỗi sự kiện trong đời sống hàng ngày. Về mặt thuật ngữ khoa học, “Văn hóa” được bắt nguồn từ chữ La tinh “Cultus”-gieo trồng, dùng theo nghĩa “Cultus Agri”- gieo trồng nông nghiệp, sinh kế cơ bản của loài người và “Cultus Animi”- gieo trồng tinh thần, sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người. Theo UNESCO: “Văn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu - những yếu tố xác định đặc tính riêng của mỗi dân tộc”. Theo quan điểm này, tất cả các loại hình du lịch đều có yếu tố văn hóa bởi vì “tất cả các hoạt động di chuyển của con người… thỏa mãn nhu cầu về sự đa dạng vốn có trong bản chất con người và hướng đến việc nâng cao trình độ văn hóa của con người bằng cách cung cấp cho họ cơ hội được học hỏi những điều mới lạ, có các trải nghiệm và các cuộc gặp gỡ” (UNWTO, 1985).
Văn hóa tạo ra sức hấp dẫn cho du lịch, do đó, nhiều nơi đã tìm cách tôn tạo và phát huy các nguồn tài nguyên văn hóa vật thể và phi vật thể, đồng thời xem đó như là những tài sản, công cụ đặc biệt để nâng cao năng lực cạnh tranh du lịch. Văn hóa kết hợp với du lịch sẽ tạo ra lợi thế cạnh tranh so sánh đặc biệt cho cả hai. Báo cáo về Di sản văn hóa và Phát triển du lịch của Tổ chức Du lịch thế giới thuộc Liên hợp quốc (UNWTO) đã lập luận rằng, văn hóa và du lịch có mối quan hệ cộng sinh đặc biệt (UNWTO, 2021). Văn hóa là những giá trị do con người tạo ra cho nên nó có mối quan hệ đến hầu hết các mặt của đời sống con người. Văn hóa tạo ra sức hấp dẫn cho du lịch và đã trở thành một phần không thể thiếu để tạo ra những kỳ nghỉ du lịch trọn vẹn. Du khách tìm kiếm những trải nghiệm đặc biệt, khác biệt và mới lạ ở những nơi có sự khác biệt về văn hóa.
Những cuốn hút về văn hóa tại điểm đến du lịch là yếu tố mang tính cạnh tranh rất cao từ góc độ sản phẩm du lịch. Do đó, nhiều nơi đã xem văn hóa như tài sản, công cụ đặc biệt để nâng cao cạnh tranh và hấp dẫn khách du lịch. Những yếu tố văn hóa cuốn hút du lịch, gồm: thủ công mỹ nghệ, ngôn ngữ, truyền thống, ẩm thực, nghệ thuật và âm nhạc, lịch sử của điểm đến, các loại công việc của cư dân, kiên trúc, tôn giáo, hệ thống giáo dục, trang phục và giải trí...
Nếu xem xét sâu hơn, có thể thấy ảnh hưởng của văn hóa lên hầu hết khía cạnh của hoạt động du lịch. Điều này tạo sự khác biệt và cũng chính là khả năng cạnh tranh của điểm đến du lịch. Sự khác biệt tạo ra chủ yếu từ khía cạnh văn hóa, cho nên những điểm đến thành công thường kết hợp tốt giữa văn hóa với du lịch. Như vậy, văn hóa và du lịch có mối quan hệ đặc biệt mang tính cộng sinh, biện chứng trong quá trình phát triển. Du lịch dựa vào văn hóa để phát triển những sản phẩm, gia tăng cuốn hút cho du khách. Ngược lại, văn hóa được quảng bá và phát triển tốt hơn thông qua các hoạt động du lịch.
Văn hóa và du lịch song hành vì sức mạnh tổng hợp và không thể tách rời. Du lịch văn hóa là một trong những thị trường du lịch lớn nhất và phát triển nhanh nhất thế giới. Yếu tố văn hóa được sử dụng trong tất cả các loại hình du lịch. Văn hóa dưới mọi hình thức là cấu phần cốt lõi trong quy hoạch điểm đến, kiến tạo sản phẩm và quảng bá du lịch, ngay cả các điểm đến chỉ nổi trội về tài nguyên thiên nhiên. Việc tăng cường sử dụng giá trị văn hóa giúp định vị rõ nét hình ảnh điểm đến nhằm thương mại hóa hiệu quả các sản phẩm du lịch.
Tính đặc thù của du lịch và văn hóa là đòi hỏi phải tạo ra các nền tảng hợp tác (quan hệ đối tác) và thiết lập các cơ chế hiệu quả kết nối hai lĩnh vực này. Các điểm đến du lịch cũng tìm cách cải thiện lợi thế so sánh của mình bằng cách phát triển các sản phẩm văn hóa (đặc biệt các yếu tố văn hóa phi vật thể và mang tính sáng tạo). Việc sử dụng các yếu tố văn hóa trong du lịch giúp phát triển địa phương một cách bền vững: nâng cao đời sống kinh tế, văn hóa và xã hội của cộng đồng địa phương điểm đến. Các cộng đồng địa phương đang bắt đầu cùng nhau xây dựng các sản phẩm văn hóa du lịch thay vì cạnh tranh trực tiếp với nhau. Các chính sách mới tạo nên sự hợp tác công - tư và tập hợp nhiều bên liên quan hơn để văn hóa không chỉ là yếu tố tăng sức hấp dẫn của điểm đến đối với khách du lịch mà còn đối với các nhà đầu tư.
Con người có xu hướng du lịch để trải nghiệm lối sống, các hoạt động gắn liền với sinh kế và phong tục tập quán hàng ngày của cộng đồng cư dân bản địa tại điểm đến. Khách du lịch mong muốn trải nghiệm văn hóa - du lịch bắt nguồn từ quá khứ (sự kiện có thật, gắn liền với sinh kế và các hoạt động trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của người dân địa phương) và còn được bảo tồn theo dòng chảy thời gian đến thời điểm hiện tại. Biên độ các lĩnh vực văn hóa mà du khách quan tâm cũng sẽ được mở rộng hơn tại. Biên độ lĩnh vực văn hóa được mở rộng và gắn liền với các sự kiện quá khứ và đương đại, đồng nghĩa với thị trường khách được mở rộng hơn rất nhiều. Hành vi tiêu dùng chính của khách du lịch quan tâm đến yếu tố văn hóa là họ không chỉ thỏa mãn ở việc được cung cấp các sản phẩm du lịch đơn lẻ mà còn sử dụng sản phẩm trong tiến trình của nó (trong môi trường thực tế và tái hiện không gian di sản) - trải nghiệm. Văn hóa bản địa tạo sự khác biệt trên thị trường du lịch toàn cầu. “Trải nghiệm du lịch” kết nối du khách với văn hóa địa phương là rất quan trọng.
Khi thế giới “đã phẳng”, sự khác biệt giữa các quốc gia chính là ở văn hóa. Đặc thù văn hóa bản địa được cụ thể hóa thành chủ đề của điểm đến du lịch, đến định hướng quy hoạch phát triển địa phương, quốc gia, bao gồm quy hoạch phát triển du lịch. Các hoạt động văn hóa còn được kết nối với các sự kiện lịch sử lớn, các địa điểm nổi tiếng hoặc những người nổi tiếng, có thể đóng vai trò là chất xúc tác cho sự phát triển du lịch. Sự tham gia của cộng đồng địa phương là điều kiện cần để phát triển sản phẩm và là yếu tố quan trọng tạo nên sự hài lòng của du khách. Vai trò của họ không chỉ giới hạn ở việc tiếp đón, phục vụ mà còn lan tỏa những giá trị văn hóa bản địa đến du khách. Cộng đồng địa phương tham gia trực tiếp trải nghiệm du lịch bởi chính họ là chủ thể của văn hóa bản địa.
Du lịch trong chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa
Ở Việt Nam, vai trò kinh tế của văn hóa, của các ngành công nghiệp văn hóa ngày càng được nhận thức rõ, được thể hiện trong các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, trong đó có thể kế đến Quyết định số 1755/QĐ-TTg ngày 08/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 nêu rõ, công nghiệp văn hóa là một phạm trù rộng, bao gồm đa dạng lĩnh vực như: Quảng cáo, kiến trúc, phần mềm và các trò chơi giải trí, thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật, nhiếp ảnh và triểm lãm, truyền hình và phát thanh, du lịch văn hóa.
Trong Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030, du lịch văn hóa được xác định là một trong những ngành công nghiệp văn hóa cần được đẩy mạnh phát triển thành ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, cùng với thủ công mỹ nghệ, thiết kế, điện ảnh, xuất bản, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, mỹ thuật… Văn hóa là tài nguyên để phát triển du lịch và du lịch là phương thức hữu hiệu để khai thác giá trị kinh tế của văn hóa. Thực tế phát triển công nghiệp văn hóa tại nhiều nước trên thế giới cho thấy, những sản phẩm công nghiệp văn hóa như K-POP (Hàn Quốc); truyện tranh, hoạt hình (Nhật Bản); điện ảnh Hollywood (Hoa Kỳ)… là yếu tố quan trọng giúp thương hiệu văn hóa quốc gia, mức độ nhận diện hình ảnh đất nước này ngày càng được khẳng định, trở thành yếu tố hàng đầu thu hút khách du lịch đến tìm hiểu và trải nghiệm.
Các lĩnh vực của công nghiệp văn hóa được kỳ vọng sẽ trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt cả về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm thông qua việc sản xuất ngày càng nhiều sản phẩm, dịch vụ văn hóa đa dạng, chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu. Song song với đó, sự phát triển của công nghiệp văn hóa đồng thời là phương thức bảo tồn, giữ gìn và phát huy những giá trị tốt đẹp của đất nước với nền văn hiến lâu đời; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, xác lập được các thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, trong đó ưu tiên phát triển các ngành có nhiều lợi thế, tiềm năng. Điển hình là ngành Du lịch văn hóa trong bối cảnh ngành Du lịch đang được quan tâm và có các chính sách, chiến lược đẩy mạnh sự phát triển của ngành mũi nhọn, với những đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế - xã hội đất nước.
Trong Quyết định số 1909/QĐ-TTg ngày 21/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chiến lược phát triển văn hóa Việt Nam đến năm 2030, nêu rõ, văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Văn hóa phải được đặt ngang hàng và phát triển hài hòa với kinh tế, chính trị, xã hội; bảo đảm yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế; thích ứng với xu thế phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các công nghệ mới, hiện đại và biến đổi kinh tế - xã hội, con người do tác động của thiên tai, dịch bệnh, khủng hoảng... Phấn đấu giá trị gia tăng của các ngành công nghiệp văn hóa, nhất là điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa, mỹ thuật, nhiếp ảnh, triển lãm, quảng cáo đóng góp 7% GDP; mức tăng trưởng giá trị gia tăng hàng năm trung bình đạt 7%. Phấn đấu có từ 1 đến 3 thành phố sáng tạo thuộc mạng lưới các thành phố sáng tạo UNESCO ở các lĩnh vực thiết kế, ẩm thực, thủ công và nghệ thuật dân gian, nghệ thuật truyền thông nghe nhìn, điện ảnh, văn học, âm nhạc.
Bên cạnh đó, quan điểm của Đảng và Nhà nước đã nhận định, các ngành công nghiệp văn hóa là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi nhằm thu hút tối đa nguồn lực từ doanh nghiệp và xã hội để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Trong đó, sự phát triển các ngành công nghiệp văn hóa được dựa trên sự sáng tạo, khoa học công nghệ và bản quyền trí tuệ; khai thác tối đa yếu tố kinh tế của các giá trị văn hóa. Việc phát triển các ngành công nghiệp văn hóa có trọng tâm, trọng điểm, có lộ trình theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phát huy được lợi thế của Việt Nam, phù hợp với các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường; được đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các khâu sáng tạo, sản xuất, phân phối, phổ biến tiêu dùng. Đồng thời, phát triển công nghiệp văn hóa còn gắn liền với việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, góp phần bảo vệ, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong quá trình giao lưu, hội nhập và hợp tác quốc tế.
Phát triển du lịch văn hóa nói riêng và các ngành công nghiệp văn hóa nói chung đều cần xuất phát từ vốn di sản văn hóa đã được kết tinh thành những giá trị mang tính cốt lõi để từ đó sáng tạo nên những sản phẩm mới, tạo ra giá trị phái sinh, giá trị gia tăng cho xã hội. Tuy nhiên, di sản văn hóa cũng có tính nhạy cảm và dễ bị tổn thương. Thời gian qua, không ít di sản văn hóa đã bị xâm hại, thậm chí biến dạng vì mục tiêu du lịch. Vì thế, các chuyên gia lưu ý khi khai thác di sản cần tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Bên cạnh đó, muốn khai thác di sản bền vững, phải chú trọng yếu tố bản quyền, chia sẻ lợi ích, từ đó góp phần bảo tồn di sản. Để phát triển hiệu quả các sản phẩm du lịch văn hóa gắn liền công nghiệp văn hóa, phải tạo được chuỗi sản phẩm du lịch từ các giá trị toàn diện của di sản văn hóa. Muốn vậy, ngay từ khâu xây dựng ý tưởng sản phẩm, di sản văn hóa phải được đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc dưới góc nhìn mới về tài nguyên cũ. Ðánh giá cần được phân tích trên nhiều khía cạnh giá trị cả về vật chất lẫn tinh thần, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Khai thác giá trị văn hóa tạo động lực phát triển kinh tế du lịch
Văn hóa và du lịch có mối quan hệ khắng khít và tương hỗ tạo nên tính hấp dẫn và năng lực cạnh tranh của các của điểm đến. Văn hóa ngày càng trở thành một cấu phần quan trọng của sản phẩm du lịch, vì nó cho phép sản phẩm đó được định vị rõ nét trên thị trường du lịch toàn cầu đang dần bão hòa. Tương tự như vậy, du lịch là một phương thức mạnh mẽ và hiệu quả để nâng cao giá trị văn hóa văn hóa và mang lại nguồn lợi kinh tế góp phần duy trì và phát triển di sản văn hóa, kiến tạo các sản phẩm văn hóa và thúc đẩy sáng tạo.
Cho đến thế kỷ 20, du lịch và văn hóa vẫn thường được nhìn nhận là các cấu phần độc lập tạo nên sức hút của các điểm đến. Theo quan điểm trên, tài nguyên văn hóa (di sản văn hóa) phụ thuộc phần lớn vào trình độ học vấn của người dân địa phương và tạo nên bản sắc văn hóa địa phương. Du lịch được xem là hoạt động giải trí, hoạt động bên ngoài cuộc sống hằng ngày. Quan điểm này đã bắt đầu thay đổi vào thể kỷ 20. Các đặc tính văn hóa nổi trội thu hút khách du lịch và tạo nên bản sắc riêng cho điểm đến và được đánh giá là một nguồn lực phát triển kinh tế quan trọng của địa phương. Đầu tiên, mối liên hệ giữa du lịch và văn hóa thường tập trung vào các cảnh quan và công trình kiến trúc, nghệ thuật. Theo quan điểm trên, sự thu hút văn hóa nổi trội của một địa phương hay quốc gia thường là các địa điểm văn hóa quan trọng. Tuy nhiên, mối liên hệ trên dần được mở rộng hơn, bao gồm nghề thủ công, nghệ thuật biểu diễn, lễ hội, sự kiện văn hóa, kiến trúc, thiết kế, gần đây hơn là các hoạt động sáng tạo và di sản phi vật thể. Việc mở rộng phạm vi văn hóa và vai trò của các lĩnh vực văn hóa yêu cầu một cách tiếp cận tổng quát hơn, vượt qua ranh giới của di sản văn hóa truyền thống và bao gồm sáng tạo nghệ thuật, lối sống của cộng đồng dân cư tại điểm đến. Những xu hướng này được thể hiện ở Công ước của UNESCO về Bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể (2003). Công ước này đưa ra những quan điểm mới cho các khu vực có ít yếu tố di sản văn hóa vật thể, nhưng lại có rất nhiều yếu tố văn hóa phi vật thể phong phú, đăc biệt tại các vùng nông thôn, nơi yếu tố văn hóa phi vật thể chủ yếu tập trung quanh các hoạt động sinh kế nông nghiệp.
Theo thống kê của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, hiện cả nước có khoảng 40.000 di tích được kiểm kê. Trong đó, hiện có khoảng 10.000 di tích được xếp hạng cấp tỉnh, thành phố; trên 3.460 di tích cấp quốc gia; 107 di tích quốc gia đặc biệt, 164 bảo vật quốc gia. Có 8 di sản được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên thế giới và 14 di sản được UNESCO công nhận Di sản Văn hóa phi vật thể của nhân loại. Trong Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO, Việt Nam có 7 Di sản tư liệu được UNESCO ghi danh. Ngoài ra, Việt Nam còn có 9 Khu dự trữ sinh quyển thế giới. Nhiều di sản văn hóa đã trở thành những sản phẩm văn hóa - du lịch hoàn chỉnh, vừa là động lực vừa là mục tiêu cho phát triển ngành kinh tế mũi nhọn du lịch; đồng thời, từng bước làm thay đổi cơ cấu kinh tế địa phương nơi có di sản, mang lại cho cộng đồng và địa phương những lợi ích thiết thực và bền vững.
Thời gian gần đây, du lịch Việt Nam đã có sự tăng trưởng bứt phá ngoạn mục. Năm 2019 (trước khi xảy ra đại dịch COVID-19), tổng thu du lịch của Việt Nam ước đạt 700.000 tỷ, tạo bước đột phá về năng lực cạnh tranh. Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) đã công bố Báo cáo năng lực cạnh tranh du lịch toàn cầu năm 2019. Theo đó, năng lực cạnh tranh du lịch Việt Nam cải thiện đáng kể, từ hạng 67/136 lên hạng 63/140, tăng 4 bậc so với năm 2017. Bên cạnh đó, dữ liệu từ công cụ tìm kiếm điểm đến của Google cho thấy Việt Nam liên tục nằm trong top điểm đến dẫn đầu thế giới về mức tăng trưởng lượng tìm kiếm thông tin du lịch, đạt mức tăng từ 50% đến 75%. Theo báo cáo mới nhất của Diễn đàn Kinh tế thế giới, chỉ số năng lực phát triển của du lịch Việt Nam năm 2021 xếp thứ 52, tăng 8 bậc so với năm 2019, nằm trong số 3 quốc gia có mức độ cải thiện tốt nhất trên thế giới. Những số liệu này cho thấy, du lịch đã trở thành một ngành công nghiệp văn hóa và ngày càng khai thác, chuyển hóa hiệu quả nguồn tài nguyên văn hóa thành sức mạnh mềm văn hóa Việt Nam.
Sau khi đại dịch COVID-19 tạm thời lắng xuống, từ ngày 15/3/2022, Việt Nam tiến hành bình thường hóa các hoạt động, trong đó có lĩnh vực du lịch. Năm 2022, ngành Du lịch Việt Nam đón tiếp và phục vụ khoảng 3,5 triệu lượt khách quốc tế, đạt 70% kế hoạch năm (bằng 19,55% so với năm 2019); khách quốc tế chủ yếu là thị trường Hàn Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Singapore. Khách du lịch nội địa đạt 101,3 triệu lượt, vượt 68% kế hoạch năm (vượt 19% so với năm 2019). Tổng thu du lịch đạt 495 nghìn tỷ đồng, vượt 23% kế hoạch năm (bằng 66% so với năm 2019). Cả nước hiện có 2.948 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, tăng 837 doanh nghiệp so với năm 2021; 1.302 doanh nghiệp lữ hành nội địa; 33.768 hướng dẫn viên (HDV), trong đó có 20.018 HDV quốc tế, 12.367 HDV nội địa, 1.383 HDV tại điểm. Có 35.000 cơ sở lưu trú với 700.000 phòng; trong đó có 221 cơ sở 5 sao với 74.300 phòng (12 cơ sở công nhận mới), 340 cơ sở 4 sao với 45.700 phòng (25 cơ sở công nhận mới). Cả nước hiện có 535 điểm du lịch, 60 khu du lịch cấp tỉnh, 7 khu du lịch cấp quốc gia được công nhận; 38/63 tỉnh, thành phố đã thành lập Trung tâm hỗ trợ khách du lịch.
Năm 2022, các nhiệm vụ về quy hoạch, quảng bá xúc tiến, hợp tác quốc tế, chuyển đổi số cũng đạt được nhiều kết quả nổi bật. Quy hoạch hệ thống du lịch Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 đang trong giai đoạn hoàn thiện để trình Chính phủ. Tổng cục Du lịch cũng đã tổ chức các đoàn công tác đánh giá tác động của dịch COVID-19 và tình hình hồi phục ở các địa phương; tổ chức quảng bá xúc tiến mởi lại du lịch bình thường mới “Live fully in Vietnam”; tổ chức truyền thông trên nền tảng số YouTube “Việt Nam: Đi để yêu!” bằng 2 ngôn ngữ Anh - Việt; truyền thông số về du lịch được trao giải Nhì về thông tin đối ngoai... Chính phủ đã ban hành Nghị định về mô hình quản lý khu du lịch quốc gia; phối hợp tổ chức thành công Năm Du lịch quốc gia 2022 Quảng Nam. Ngoài ra, năm 2022, với sự nỗ lực của toàn ngành, Du lịch Việt Nam cũng đạt nhiều hạng mục giải thưởng thế giới: 48 hạng mục châu Á, 16 hạng mục thế giới; nổi bật là Điểm đến Di sản hàng đầu thế giới; Điểm đến hàng đầu châu Á; lần thứ 6 liên tiếp là Điểm đến du lịch Golf tốt nhất châu Á...
Sang năm 2023, ngành Du lịch Việt Nam đặt mục tiêu đón và phục vụ 102 triệu lượt khách nội địa; 8 triệu lượt khách quốc tế, tổng thu 650 nghìn tỷ đồng. Năm 2023 sẽ tập trung triển khai thực hiện Quy hoạch hệ thống du lịch Việt Nam giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 khi được Chính phủ phê duyệt; triển khai các đề án “Chiến lược marketing du lịch Việt Nam”, Đề án “Ứng dụng công nghệ của công nghiệp 4.0 để phát triển du lịch thông minh”; chương trình, đề án phát triển du lịch nông nghiệp, du lịch cộng đồng, du lịch vùng dân tộc thiểu số. Bên cạnh đó, toàn ngành sẽ tiến hành sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị cùng các Hội nghị Du lịch toàn quốc, Hội nghị chuyên để về nguồn nhân lực du lịch, Hội nghị hợp tác du lịch Việt Nam - Đài Loan lần thứ 10; phối hợp với Quỹ hỗ trợ phát triển du lịch tham gia các sự kiện quảng bá như ATF2023, TRAVEX Indonesia, ITB Berlin, WTM London và các hội chợ, roadshow, sự kiện từ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn quốc, ASEAN, Mỹ...; tổ chức Năm Du lịch Quốc gia 2023 tại Bình Thuận.
Có thể thấy rằng, sự hiện diện và thẩm thấu của văn hóa trong các hoạt động kinh tế ngày càng sâu rộng hơn. Với vai trò là động lực cho sự phát triển kinh tế, văn hóa đã tham gia điều tiết và thúc đẩy sự phát triển kinh tế ở nhiều phương diện. Để văn hóa trở thành "động lực đột phá" cho sự phát triển kinh tế như tinh thần Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, cần thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng về vai trò của văn hóa trong phát triển nói chung, trong phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế du lịch nói riêng. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nguyên nhân của cả thành công hay thất bại của các quốc gia liên quan mật thiết đến thể chế của quốc gia đó.
Như đã trình bày ở trên, hệ thống quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế thời kỳ đổi mới đã được nêu rõ trong Văn kiện các kỳ Đại hội Đảng. Nếu những quan điểm này đi vào cuộc sống, chắc chắn sẽ tạo được sự chuyển động trong phát triển kinh tế theo mục tiêu đề ra. Chính vì vậy, trước hết và trên hết, cần tập trung thể chế hóa các quan điểm của Đảng về vai trò của văn hóa trong phát triển kinh tế thành luật pháp, thành các chiến lược, thành các quy định cụ thể. Cần xây dựng chế tài về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, xác định được trách nhiệm pháp lý của các chủ thể kinh tế trong việc tuân thủ các giá trị, chuẩn mực văn hóa và khai thác nguồn vốn văn hóa để phát triển kinh tế. Có như vậy mới tạo động lực cho các doanh nghiệp tìm tòi, đổi mới mô hình hoạt động theo hướng coi trọng giá trị văn hóa trong sản xuất, kinh doanh.
Tập trung phát triển ngành công nghiệp văn hóa và hoàn thiện thị trường các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Đây là ngành kinh tế mới, hứa hẹn nhiều tiềm năng, đặc biệt là đối với một quốc gia sở hữu nguồn vốn văn hóa phong phú như Việt Nam. Tuy nhiên, để biến tiềm năng thành hiện thực, thành những nguồn lực, động lực để phát triển thì đòi hỏi cần phải có sự thay đổi cả về tư duy và hành động. Nhà nước nên lựa chọn để đầu tư, hỗ trợ một số lĩnh vực công nghiệp văn hóa và ban hành chính sách để thu hút các thành phần kinh tế tham gia phát triển công nghiệp văn hóa. Các chính quyền địa phương cũng phải quyết liệt hơn nữa cùng với Chính phủ trong việc đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống, xây dựng và phát triển ngành công nghiệp văn hóa dựa trên khai thác các lợi thế so sánh của địa phương mình. Văn hóa, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đã khẳng định vị trí của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập hiện nay, văn hóa tiếp tục phát huy vai trò của mình với tư cách là nền tảng tinh thần, là nguồn lực nội sinh quan trọng, là động lực cho sự phát triển đất nước. Mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế ngày càng gắn bó. Đây là một trong những mối quan hệ lớn của đất nước, của thời đại, mà nếu được giải quyết tốt, sẽ góp phần làm gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Những năm gần đây, phát triển du lịch chiếm vị trí quan trọng trong nền kinh tế đất nước. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, Nghị quyết số 103/NQ-CP của Chính phủ ngày 10/7/2017 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn đã đặt ra nhiều mục tiêu, giải pháp tập trung cho phát triển du lịch, trong đó tập trung mở rộng không gian khai thác du lịch, phát triển hệ thống sản phẩm chất lượng cao, khác biệt, có khả năng cạnh tranh cao, hấp dẫn khách du lịch. Đồng thời phải đảm bảo phát huy vai trò của cộng đồng trong phát triển du lịch; sử dụng hợp lý và hiệu quả tài nguyên du lịch theo hướng bền vững; gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, vùng miền…
Tại Việt Nam, dù phát triển công nghiệp văn hóa còn khá mới mẻ, nhưng sản phẩm từ các ngành công nghiệp văn hóa cũng đã ít nhiều tạo nên hiệu ứng du lịch. Rõ ràng, phát triển công nghiệp văn hóa là đòn bẩy để thúc đẩy du lịch. Ở chiều ngược lại, du lịch văn hóa không chỉ là bộ phận cấu thành các ngành công nghiệp văn hóa mà còn là cơ sở tạo ra nguồn lực giúp bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa một cách bền vững. Ðể có thể phát huy vai trò của ngành công nghiệp văn hóa trong mối liên kết với du lịch, theo các chuyên gia, cần có nhiều giải pháp khơi thông năng lực sáng tạo của các tổ chức, cá nhân. Muốn du lịch văn hóa trở thành ngành công nghiệp văn hóa, yếu tố tiên quyết là phải có được những sản phẩm du lịch sáng tạo mang đến trải nghiệm khác biệt cho du khách. Chìa khóa để tạo ra sự khác biệt này chính là khai thác những yếu tố văn hóa mang tính bản sắc, đặc trưng của địa phương, điểm đến. Nhu cầu du lịch văn hóa của du khách là rất lớn, nhưng nếu cho tất cả các đối tượng khách cùng thưởng thức chung một sản phẩm thì sẽ không thể tạo ra sức hấp dẫn, vì thế cần cá biệt hóa trải nghiệm của các nhóm du khách trong hành trình du lịch, chẳng hạn du khách trẻ tuổi đang khá quan tâm đến yếu tố giáo dục trong tour, còn du khách trung tuổi trở lên mong muốn các yếu tố mang tính gắn kết, sẻ chia...
Bên cạnh đó, để có được những sản phẩm công nghiệp văn hóa, cần hội đủ những yếu tố như: con người sáng tạo, nhận thức, tri thức văn hóa của xã hội, các phương tiện công nghệ, kỹ thuật, khả năng kinh doanh, thương mại hóa sản phẩm... Song ở Việt Nam, vẫn còn thiếu sự liên kết giữa các yếu tố này. Không thiếu cá nhân xuất sắc nhưng lại thiếu tập thể liên kết, tập thể sáng tạo. Trên thực tế, Việt Nam có nhiều sản phẩm văn hóa tốt, nhưng lại thiếu những doanh nghiệp văn hóa, những nhà tài trợ đóng vai trò là bà đỡ, tạo chất kết dính đưa những sản phẩm này đi vào cuộc sống. Vì thế, cần thiết phải có những chính sách phát triển văn hóa gắn với hoạt động du lịch để kích hoạt môi trường sáng tạo, thu hút đầu tư. Ngoài ra, cần xây dựng được hệ sinh thái sáng tạo với những chính sách, hướng dẫn cụ thể cho những nhà đầu tư, người hoạt động văn hóa du lịch, có hành lang pháp lý để thúc đẩy hợp tác công-tư, xây dựng cơ chế phân chia lợi ích rõ ràng và hợp lý để có thể gắn kết chặt chẽ nhà quản lý, nhà khoa học, doanh nghiệp với người dân trong quá trình khai thác giá trị văn hóa tạo thành nguồn lực phát triển sản phẩm du lịch trong thực tế./.
TS. Đoàn Mạnh Cương - Văn phòng Quốc hội