Độc đáo vùng đất cổ Nam bộ

Là một tỉnh đồng bằng ở phía Tây Nam đất nước nhưng thiên nhiên đã có nhiều ưu đãi cho tỉnh An Giang. Nơi đó vừa có nhiều sông, kênh, rạch “chảy ngang xẻ dọc” vừa có đến 37 ngọn núi và hàng chục ngọn đồi lớn nhỏ

Ngắm ruộng… bậc thang

Ở đây có huyện Tri Tôn, một trong những điểm đến được người yêu thích du lịch khó có thể bỏ qua. Tri Tôn là vùng đất cổ, ngày nay không chỉ có thế mạnh nhờ cảnh trí hấp dẫn mà còn có rất nhiều chùa chiền, di tích, đặc sản và những huyền thoại được lưu truyền qua bao thế hệ.

Chùa Xvayton nằm ở trung tâm thị trấn Tri Tôn, ngôi chùa Khmer xưa nhất tỉnh An Giang. Tên của chùa với ý nghĩa là khỉ (Xvay) đeo cây (ton), vì nơi đây xưa là rừng rậm có nhiều khỉ, dần dần người Việt gọi trại ra thành Xà Tón đến nay. Chùa có cách nay hơn 300 năm. Ban đầu được cất đơn sơ vào thế kỷ XVII, đến năm 1896 được xây kiên cố, nền gạch, lợp ngói, cột bằng gỗ, dáng dấp như hiện nay. Trước chùa có hồ sen lớn và một tượng Phật lớn dưới bóng cây lâm vồ trên trăm tuổi.

Chùa mang đậm dấu ấn Khmer với nóc nhọn, hai mái cong gộp thành ba cấp, được trang trí hình tượng rắn thần Naga, biểu tượng sức mạnh bất diệt. Trong chánh điện có nhiều tranh vẽ sự tích cuộc đời Đức Phật trên vách tường. Xung quanh chánh điện có nhiều tháp được trang trí tinh xảo, kiểu cách, trên đỉnh chạm hình thần Bayon bốn mặt. Chùa còn được gọi là “đền Bayon của An Giang”. Đến chùa Xvayton, bạn sẽ có cảm giác như lạc vào cõi thiên thai đầy màu sắc huyền bí.

Ngoài ra, chùa còn được công nhận kỷ lục Việt Nam vì lưu giữ nhiều bộ kinh lá nhất, hơn 100 bộ. Trong chùa hiện còn rất nhiều bộ kinh chép trên lá buông. Kích thước mỗi bộ kinh 6x60cm hoặc ngắn hơn, độ dày tùy theo nội dung kinh, mỗi bộ kinh nặng khoảng 1kg. Buông là loại lá đặc biệt, hàng trăm năm không bị mối mọt hay côn trùng cắn phá, để càng lâu mặt lá càng bóng và chữ viết nổi rõ hơn.

Tại chùa Xvayton, hàng năm diễn ra nhiều nghi lễ quan trọng của đồng bào Khmer như: Chol Chnam Thmay (mừng năm mới) từ ngày 13 đến 15-4 dương lịch, Pisat Bochia (Phật Đản sanh) rằm tháng 4, Chol Pro Sa (an cư kiết hạ) rằm tháng 6, Dolta (cúng ông bà) rằm tháng 9, Ok om bok (cúng trăng) rằm tháng 10.

Núi Tà Pạ nằm cách chợ Tri Tôn khoảng 1km, mang vẻ đẹp hoang sơ và kỳ bí. Trên núi có chùa cổ Chưn Num với kiến trúc độc đáo. Bên dưới chùa có hồ Tạ Pạ lung linh bên triền núi. Nước hồ rất trong và mát, cây cối xung quanh in bóng xuống nên nước có màu xanh lục như một mặt cẩm thạch khổng lồ. Xung quanh được bao quanh bởi các chỏm đá cao thấp không đều, nhiều cột đá mang hình thù rất độc đáo. Không ai nghĩ rằng khung cảnh tráng lệ đó lại có từ những dấu vết khai thác đá còn sót lại.



 
Cảnh hữu tình quanh núi Tà Pạ.

Tại đây bạn cũng có thể ngắm ruộng bậc thang mà không cần phải đến Tây Bắc. Dưới núi Tà Pạ là những ô ruộng với nhiều màu sắc khác nhau, chỗ lúa đã chín vàng, nơi mạ còn xanh mơn mởn. Đứng trên núi Tà Pạ, du khách còn có thể ngắm nhiều dãy núi chập chùng khác, xa xa là những hàng cây chạy dài chừng như không bao giờ tận. Mây trên núi và sương khói của đồng bằng hòa quyện vào nhau làm khung cảnh thêm kỳ ảo.

Núi Tô nằm cạnh núi Tà Pạ, với những điểm đến như suối Vàng, suối Bạc, bàn chân Tiên, vồ Hội, mũi Tàu, đồi Tức Dụp… Đường lên núi khá mát mẻ, yên tĩnh, ven đường có nhiều chùa miếu và những vườn cây trái xanh tươi. Ngay ở chân núi có hồ Soài So, một hồ nước nhân tạo chu vi khoảng 5ha. Nguồn nước cung cấp chính cho hồ Soài So là từ suối Vàng và suối Bạc trên núi, hai con suối chảy qua các vồ đá, khe núi rồi đổ về hồ. Hồ có tác dụng trữ nước phục vụ sinh hoạt của người dân trong vùng và được đầu tư khai thác du lịch.

Trên núi có một tảng đá in dấu bàn chân rất to (khoảng 5 gang tay) gọi là “bàn chân Tiên” vì dân gian cho rằng đó là dấu chân của một vị tiên để lại. Gần đó là vồ Hội - một bãi đá rộng lớn, khí hậu yên tĩnh, mát mẻ, trở thành điểm lý tưởng để ngoạn cảnh. Ngoài ra, bạn còn có thể đến mũi Tàu - một tảng đá giống chiếc thuyền lớn, tương truyền ngày xưa nơi đây là biển, có một chiếc thuyền chìm ở đây rồi hóa đá.

Nếu ví thế núi Tô như con chim Phượng hoàng thì cái đuôi của nó chính là đồi Tức Dụp. Tên đồi bắt nguồn từ tiếng Khmer “Tức Chup”, với “tức” là nước, “chup” là đêm, người xưa nghe tiếng nước chảy róc rách vào ban đêm rồi phát hiện ra suối nên đặt tên như thế. Đồi cao 216m, chu vi khoảng 2.000m, có nhiều hang động ăn thông với nhau chằng chịt. Trong chiến tranh, đồi Tức Dụp là nơi trú ẩn của quân giải phóng, quân đội Mỹ nhiều lần đánh phá ngọn đồi này nhưng không thành. Mỹ đã treo giá 2 triệu USD nếu chiếm được ngọn đồi này, từ đó đồi còn được gọi tên “Đồi 2 triệu USD”. Ngày nay, đồi Tức Dụp là du lịch kết hợp giữa leo núi dã ngoại, vui chơi giải trí, xem thú hoang dã, ẩm thực, đờn ca tài tử…

Trấn đạo chi bảo

Từ thị trấn Tri Tôn, tiếp tục theo tỉnh lộ 955 đi về phía biên giới. Chùa Tam Bửu và Phi Lai là hai ngôi chùa nằm cạnh nhau, thuộc thị trấn Ba Chúc (Tri Tôn) được xem là Tổ đình của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Đạo này được khai sinh ở An Giang, cũng là một phong trào Cần Vương. Giáo lý của đạo là tu nhân đạo và Phật đạo; thờ Tứ Ân, không xuất gia, không thờ tượng cốt, có nhiều nghi lễ, thờ phượng nhiều đối tượng trong chùa và tại gia đình.




Nhà mồ Ba Chúc.

Chùa Tam Bửu còn giữ được kiến trúc cổ xưa, cách thiết kế độc đáo, sang trọng, không giống với bất cứ ngôi chùa nào trong khu vực. Chùa Tam Bửu còn có một bảo vật được xem “trấn đạo chi bảo” là ngôi Long Đình. Long Đình làm bằng cây cam đàn, chạm trổ sắc nét, rất có giá trị nghệ thuật. Tín đồ thờ Long Đình xem như một đấng bề trên khuất mặt gọi là Đức Phật Vương. Tuy nhiên, theo nhà văn Sơn Nam, đây chính là tượng trưng cho vua Hàm Nghi. Năm 1885, Pháp đến phá chùa lấy đi ngôi Long Đình, sau đó đem trưng bày tại Viện Bảo tàng Sài Gòn. Mãi đến năm 1971, chính quyền chế độ cũ mới trao trả về chùa.

Chùa Phi Lai mang dáng vẻ truyền thống, nóc cổ lầu, nhiều tầng mái, chánh điện thoáng rộng và cao ráo. Thực tế chùa Phi Lai gồm hai phần, phía trước là chùa thờ Ngọc Hoàng Huyền khung cao thượng đế, phía sau là miếu An Định thờ Thành hoàng bổn cảnh của thôn An Định. Ngoài ra, tại đây còn có di tích vụ thảm sát Ba Chúc trong chiến tranh biên giới Tây Nam năm 1978. Hai ngôi chùa này là chứng nhân cho vụ thảm sát lịch sử hàng ngàn dân thường vào ngày 18-4-1978. Hiện nay, trong chùa còn vết máu trên vách tường được lưu lại làm chứng tích lịch sử. Nhiều nơi khác ở thị trấn Ba Chúc cũng bị tấn công và thảm sát. Theo thống kê, toàn vùng Ba Chúc tổng cộng có hơn 3.000 người bị giết. Năm 1979, Nhà mồ Ba Chúc được xây dựng trong khuôn viên chùa Tam Bửu - Phi Lai, chứa 1.159 hài cốt bị sát hại để mọi người tưởng niệm (số hài cốt còn lại đã được gia đình nhận về an táng).

VĨNH THÔNG (SGGP Online)

Link nội dung: https://phuongnam.vanhoavaphattrien.vn/doc-dao-vung-dat-co-nam-bo-a2614.html