Bà là người đã có công giúp vua trong buổi đầu dựng nước và giữ nước nhà nước Văn Lang. Bà kết duyên với vua Hùng thứ sáu (Hùng Huy Vương 1712 - 1632 TCN) và góp phần xây dựng nhà nước Văn Lang [3,4].. Từ đó, liên tiếp các triều đại phong kiến sau này đều có sắc phong suy tôn bà là "Tây Thiên Quốc Mẫu, Thượng đẳng phúc thần” hiệu là “Tam Đảo sơn trụ Quốc Mẫu”.
Trong Từ điển Bộ Lễ nhà Lê, bà được xếp thứ hai sau Tản Viên Sơn Thánh, được vinh phong là: “Tam Đảo Sơn Trụ Quốc Mẫu Tối Linh Đại Vương”. Đền thờ bà tọa lạc trên núi Thạch Bàn cùng với chùa Tây Thiên, nên cũng còn được gọi là đền Thượng Tây Thiên. Hiện nay, trải qua nhiều lần xếp hạng, đến năm 2015, khu di tích này đã được Nhà nước xếp hạng là Di tích Lịch sử - Văn hóa cấp Quốc gia đặc biệt.
Theo nhà nghiên cứu Lê Kim Thuyên, trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 54 ngôi đền, đình thờ Bà. Chỉ riêng tại xã Đại Đình, huyện Tam Đảo đã có tới 8 ngôi đền lớn thờ Quốc Mẫu gắn với câu chuyện lịch sử về sự sinh ra và hóa thân của Bà [3]. Trong đó, có một só di tích tiêu biểu như:
Đền Mẫu Sinh. Đền thuộc tổ dân phố Đông Lộ, thị trấn Đại Đình, huyện Tam Đảo, với khuôn viên trên diện tích khoảng 2 316 m2. Trước đó, tài liệu năm 1763 có ghi là đình thôn Đông Lộ (thuộc xã Đại Điền, huyện Tam Dương, trấn Sơn Tây). Song, do biến động xã hội, đình này bị phá hủy. Sau này, khi việc thờ cúng Quốc mẫu được phục hồi, nhân dân địa phương đã xây dựng thành ngôi đền thờ Quốc Mẫu và thân phụ, thân mẫu của bà. Tương truyền đây là nơi sinh ra Quốc Mẫu Tây Thiên với tục danh là Lăng Thị Tiêu.
Đền Mẫu Hóa. Đền thuộc tổ dân phố Sơn Phong, thị trấn Đại Đình, có khuôn viên diện tích khoảng 9 040 m2 . Trước đây đền có tên gọi là Đình Tổng (thuộc Tổng Đông Lộ). Tương truyền nơi đây là nơi hóa thân của Quốc Mẫu Tây Thiên. Cạnh cổng Đền còn có giếng Mộc dục là nơi Quốc Mẫu tắm gội trước khi hóa thân về trời. Theo các cụ bô lão trong làng giếng nước không bao giờ cạn kể cả những năm hạn hán, trước đây giếng được kè bằng đá cuội, đến năm 1997 các cụ phụ lão trong làng huy động nhân dân xây dựng lại để bảo vệ. Trong Đền còn có long ngai bài vị ghi bằng chữ hán “ Tam Đảo sơn trụ Quốc Mẫu đại vương”.
Đền Ngò. Ngôi đền nằm dưới tán những cây gỗ lim xanh cổ thụ,thuộc tổ dân phố Sơn Đình, thị trấn Đại Đình, với khuôn viên diện tích chừng 2 804m2. Tương truyền đây là nơi Quốc Mẫu Tây Thiên đã tổ chức tuyển quân và huấn luyện dân binh để giúp vua Hùng đánh đuổi giặc Thục Hán. Hiện nay, trong Đền vẫn còn lưu giữ tấm bia đá “Tạo lập bi ký” niên hiệu Chính Hòa thứ 22. Nội dung bia ghi: “Sắc chỉ cho xã Sơn Đình giữ phận sự tạo lệ (trông nom phục dịch) Chùa Tây Thiên, Phù Nghì trên núi Tam Đảo”. Hằng năm vào ngày 15 tháng 2 âm lịch, đây cũng là nơi khởi hành rước kiệu Bát Cống về Đền Thỏng trong ngày chính hội Lễ hội Tây Thiên [5].
Đền Thỏng. Trong "Tự điển Bộ Lễ" triều Lê năm 1763, ngôi đền này đã từng được biết đến với tên gọi là đình của xã Sơn Khổn, huyện Tam Dương, trấn Sơn Tây. Hiện nay, đền thuộc tổ dân phân phố Đồng Thỏng, thị trấn Đại Đình, huyện Tam Đảo. Ngoài ra, do nằm ngay dưới chân núi, nên đền này còn có tên là Đền Trình, với ý là khách hành hương trước khi đăng sơn lên Đền Thượng, nơi thờ chính của Quốc Mẫu Tây Thiên, cần phải vào trình báo tại đây.
Phía trước sân đền còn có một tấm bia đá bốn mặt đề “ Tam Đảo Linh sơn” lập năm Bảo Thái thứ 5 (1724) và hai cây Đại cổ kính có tuổi ước tính hàng trăm năm. Trong đền, trên cung cấm có tượng Quốc Mẫu ngồi trên long ngai. Đây cũng là nơi diễn ra các sự kiện chính của phần Lễ trong Lễ hội Tây Thiên hàng năm với Lễ dâng hương, Lễ khai hội, Lễ tế của các đoàn tế vào ngày 15 tháng 2 âm lịch hàng năm. Dưới sân Đền Thỏng còn có một cây đa cổ thụ, một biểu tượng rất đặc trưng của Khu danh thắng Tây Thiên. Để giữ cho cây đa có thể tồn tại trước sự tàn phá mãnh liệt của thiên nhiên, núi rừng, ban quản lý đã tạo hình các rễ giả làm cột chống, nhờ vậy vừa không làm mất mỹ quan di tích vừa giúp cho cây Đa này đứng vững, hiên ngang tồn tại để lớp con cháu hậu thế có cơ hội được chiêm ngưỡng [5].
Đền Thượng. Là ngôi đền quan trọng nhất trong hệ thống các đền thờ Quốc Mẫu Tây Thiên, đền Thượng được coi là nơi ở và là nơi thờ chính của bà với thần hiệu “ Tam Đảo sơn Trụ Quốc Mẫu”. Khu đền nằm ngay trên sườn núi Thạch Bàn. Trước đây ngôi đền này có kết cấu 5 gian, hai trái giống như những ngôi nhà của người Việt ở đồng bằng, một bên thờ Phật và một bên thờ Quốc Mẫu. Song do sự tàn phá của tự nhiên và qua bao thăng trầm của lịch sử ngôi đền xưa, bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 2003, khi trùng tu người ta đã xây dựng Chùa và Đền thành hai đơn nguyên tách biệt. Chùa mới có tên là Thiên Phúc Tự hiện do các Ni cô tại tịnh thất Tây Thiên trông nom [5].
Đền Thượng được xây dựng lại và đưa vào phục vụ khách thăm quan vào tháng 10 năm 2009. Hiện nay, quần thể khu Đền Thượng đã được quy hoạch xây dựng khang trang hơn rất nhiều, trên diện tích quy hoạch khoảng 2,865ha, với các công trình kiến trúc chủ đạo như: Đền Thượng, Đền Tam Tòa Thánh Mẫu, Đền Cô Chín, Đền Mẫu Hoàng Thiên cùng với các công trình phụ trợ khác; nhà Tả mạc, Hữu mạc, nhà công quán, nhà thường trực của Ban quản lý, khu ki ốt dịch vụ...
Ngoài những ngôi đền nổi tiếng kể trên, trong khu danh thắng Tây Thiên, còn có những ngôi đền khác, tuy không có quy mô và nổi tiếng bằng. Song, cũng nhiều bí ẩn và linh thiêng như: Đền Cậu, Đền Cô…Theo tuyến đường du lịch, qua Đền Thõng khoảng 1,5km, du khách sẽ tới Đền Cậu, đường đi đã được lát đá và kè bậc khá thuận lợi, hai bên đường là những hàng cây rợp bóng che mát. Khách hành hương đến Đền Cậu, ngoài cầu tài, cầu phúc, lộc, thọ, còn để cầu duyên. Đền Cậu được dựng theo cách thờ Cô, thờ Cậu của tín ngưỡng Tứ phủ. Trong điện thờ có hai pho tượng đứng, được đặt trong khám, gồm một nam, một nữ. Tượng nam đội khăn cuốn màu vàng, hai bên tai có hai bông hoa rũ xuống, mình mặc áo chẽn thắt đai vàng. Tượng nữ đội khăn cuốn màu xanh, hai bên tai cũng có hoa rũ xuống, mình mặc áo chẽn màu xanh, ngoài khoác áo choàng xanh [4]. Họ tạo thành một cặp xứng đôi, trong tư duy lưỡng hợp.
Đền Cô cách Đền Cậu khoảng 2km, đền thờ Cô Bé (Cô thứ mười hai trong tín ngưỡng thờ Tứ Phủ). Đền này đã có từ rất lâu và hiện là nơi thờ Tứ Phủ Thánh Cô. Nhờ nằm trong khu vực rừng cấm quốc gia, nên khung cảnh thiên nhiên ở đây còn giữ được những nét đẹp hoang sơ và huyền ảo. Bao quanh khu đền là rừng nguyên sinh với những quần thể động thực vật đa dạng, phong phú, không khí trong lành, thanh nhã, thoáng đãng, yên bình. Ngay cạnh đền có dòng suối Giải Oan và một chiếc giếng cổ, nhiều khách hành hương đến đây đã thừa nhận rằng suối này rất linh thiêng. Nếu được uống nước lễ lấy từ suối hoặc giếng này thì sẽ cảm thấy tịnh tâm và thanh thản. Nhờ vậy, đền Cô Bé thu hút được rất nhiều du khách gần xa.
Ngoài ra, ngay tại trung tâm thị trấn Tam Đảo, những địa danh Nhà thờ Đá, Đền bà Chúa Thượng ngàn, Am Vua Bà… cũng là những nơi tâm linh, thu hút đông đảo, du khách đến thăm quan và hành lễ tâm linh.
Trong khu di tích danh thắng Tây Thiên, còn địa danh gần đây đã rất quen thuộc với đông đảo đồng bào Phật tử, đó là Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên. Thiền viện này, tuy mới được xây dựng khoảng năm 2004, song thực tế là đã được kế thừa trên nền của một ngôi chùa cổ có từ rất lâu đời. Theo Thượng tọa Thích Kiến Nguyệt, viện chủ trụ trì Thiền viện, thì Thiền viện này đã được xây dựng trên nền một ngôi Chùa cổ có tên là Thiên Ân Thiền Tự.
Chùa được xây dựng ở cao độ khoảng 250m so với mực nước biển, mặt bằng tương đối rộng rãi. Trong quá trình làm nền móng làm còn thấy những kè đá xếp tương đối nguyên vẹn, những bậc đường đi lên xuống là những khối đá to bằng phẳng, do Sư Tổ ngày xưa khéo chọn xếp.
Tương truyền, đó là một trong ba ngôi chùa cổ có từ thời Hùng Vương, gồm: Thiên Ân Thiền Tự, Thiên Quang Thiền Tự và Hoa Long Thiền Tự.
Hiện tại, chúng tôi vẫn chưa có dịp khảo sát kỹ các cổ tự này, song ở Tây Thiên vẫn còn lưu giữ được ba ngôi mộ cổ ghi danh hiệu ba vị thiền sư là: Giác Linh Ngã, Võng Sơn Thiền Sư, Cúc Khê Thiền sư. Giải mã về các hiệu danh này, bước đầu đã cho thấy: Ba chữ “Giác Linh Ngã” nghĩa là sự khẳng định. Ta là người hiểu rõ (hay giác ngộ) được sự thiêng liêng. Phải chăng, ngài là người đắc đạo đầu tiên ở Tây Thiên Còn hai vị thiền sư sau, một vị là lấy hiệu “Núi”, một vị lấy hiệu là “Khe”, đều là những đặc trưng tiêu biểu của cảnh trí trí tự nhiên trong khu vực . Phải chăng, các vị đã dựa theo đó mà đặt ra hiệu danh, tưởng tượng cho sự thiêng liêng giác ngộ: có Núi, có Khe (Nước), có Dương và có Âm.
Ngày nay, Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên đã trở thành là một trong 3 thiền viện lớn nhất của Việt Nam và là nơi đào tạo về Phật giáo một cách có hệ thống. Tạo điều kiện để Phật giáo Việt Nam phát triển và giao lưu với thế giới.
Một điểm đáng chú ý nữa ở Tây Thiên là các dấu tích di sản văn hóa và danh thắng thường kết hợp hòa quyện nhau như là một quần thể di tích - danh thắng tổng hợp. Ở đó, chúng ta thấy có đủ các loại hình di tích lịch sử - văn hóa, như: Di tích khảo cổ (Đồng Cổ, Thiên Ân, Cự thạch), di tích lịch sử (Văn bia, Đồng Ma, Ao Dứa), di tích kiến trúc nghệ thuật (đền Thượng), danh lam thắng cảnh (suối Vàng, thác Bạc). Các loại hình di tích này đan xen, hòa quyện với nhau, rất khó có thể phân định rạch ròi, tạo nên một hệ thống di tích - danh thắng liên hoàn, đa dạng, bí hiểm và linh thiêng. Nơi đây hội tụ cả 3 yếu tố: Tâm linh - Tín ngưỡng - Thiên nhiên. Do vậy, không chỉ trong mùa lễ hội, mà quanh năm đều thấy du khách thập phương đến Tây Thiên. Ngoài ra còn có hàng đoàn học sinh, sinh viên đến học tập, nghiên cứu, leo núi , khám phá cảnh rừng nguyên sinh.
Đón đọc bài 3: Danh thắng và tâm linh
TS. Nguyễn Quang Miên
Link nội dung: https://phuongnam.vanhoavaphattrien.vn/vinh-phuc-van-hoa-tam-dao-danh-thang-va-tam-linh-bai-2-huyen-bi-va-linh-thieng-a21548.html