Người Việt vốn là dòng Bách Việt, sinh tụ và phát triển trên vùng đất rộng lớn,được coi là cái nôi của văn minh nhân loại. Ở đây, Tổ tiên ta đã phát triển một nền văn hóa rực rỡ với nhiều tinh hoa tiêu biểu, song đã bị lãng quên. Nghiên cứu về thời tiền sử, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng căn dặn, những tài liệu sách vở có chẳng là bao, nhưng tìm trong dân gian thì còn nhiều, có thể là những khả năng rất tốt, quý báu. Ông nhấn mạnh, để giải quyết những vấn đề về mấy nghìn năm lịch sử đã qua, còn một nguồn quan trọng là những di tích của người xưa để lại. Đi theo hướng này, gần đây, các nhà nghiên cứu nước ta đã phát hiện nhiều di vật`được UNESCO công nhận là di sản văn minh nhân loại. Một trong những di sản quý giá ấy là phong tục Thờ Mẫu.
Ảnh minh họa
Tôn giáo Viêt Nam, truyền thống hình thành theo tư liệu cổ
Là một hình thái ý thức xã hội, tôn giáo mang tính đa dạng và phức tạp cả về nội dung hàm chứa, đối tượng phản ánh, chức năng xã hội, hình thức biểu hiện và lịch sử phát triển. Số liệu tổng điều tra vào năm 2019 cho thấy, cả nước có hơn 13,162 triệu người được xác nhận theo một trong 5 tôn giáo lớn. Mặc dù có nhiều đạo phái, song trong tâm thức từ hàng vạn năm , cộng đồng người Việt, luôn giữ niềm tin Thánh Mẫu cùng chư vị Thần linh.
Cổ Lôi Ngọc phả Truyền thư, do Thái bảo Hương Quận Công Nguyễn Vân Chí phụng sao vào đời Vua Tự Đức (năm 1848) ghi lại, khởi thủy từ Hư không Giáo chủ Đế Thiên tức Phục Hy qua đời Viêm Đế, Thần Nông đến Sở Minh Công kế nghiệp. Sở Minh Công có các con trai là Nguyễn Minh Khiết, Nguyễn Nghi Nhân và Nguyễn Long Cảnh, chia nước thành 3 vùng có chủ hiệu chung là Xích Qủy (mang nghĩa Tam Vương). Thư tịch cổ về Thiệu tổ Bách Việt cho biết, Người Việt đã cộng sinh cùng bách tộc. Bách việt từ lập quốc đã tự chủ, có Quốc đạọ là Sa môn Phật giáo, phụng sự Tổ tiên; tôn hiệu là Trời, Đất, Phật, Thánh, Thần Tiên, Ngọc Hoàng, Vương Mẫu. Từ vạn cổ Bách Việt đã có Đạo, 3 nghìn năm sau, Thái tử Ấn Độ mới đến Lợi Giã đất Việt tu hành đắc đạo; về nước sáng lập Ấn Độ giáo theo Sa Môn Phật thờ phụng Thiên Địa Bách thần và thỉnh Lôi âm Chân kinh ở Bảo sái Tây Phương Cực Lạc, nơi thờ phụng từ Bách Việt Thiệu tổ trở về trước, mang về.
Bản sao chép Ngọc phả dòng họ Nguyễn vàò năm Khải Định thứ 9 (năm1924) ghi lại, cao cao tổ khảo tên chữ là Thái Khương Công, cao cao Tổ tỷ là Đỗ Quý Thị mang tên công chúa Đoan Trang. Do cao cao Tổ Thái Khương Công nghi ngờ công chúa, cho là một phụ nữ bất chính nên đưa từ chính thất xuống thứ thất. Bà oán giận, bỏ nhà vào động đi tu, dùng giáo huấn để cảm hóa mọi người. Bà cùng 8 em trai (đời sau tôn là Bát Bộ Kim cương) nuôi dưỡng và dậy dỗ con trai Nguyễn Quảng (tức Lộc Tục là Kinh Dương Vương sau này) ở trong hang, gọi là động Tiên Phi ở huyện Lạc Thủy, tỉnh Hòa Bình
Cao cao Tổ tỷ Đỗ Quý Thị tu hành đắc đạo, trở thành Sa Bà Giáo chủ, mang pháp danh hương Vân Cái Bồ tát, đạo Tiên tôn là Đệ nhất Tiên Thiên Thành Mẫu, mộ bà còn ở Ba La và nhiều di tích còn để lại trong các ngôi chùa ở mọi miền đất nước.
Với phong tục thờ Trời, Đất, Rừng, Nước..; Đạo Thánh Mẫu được coi là một trong những tôn giáo tối cổ còn tồn tại cho đến ngày nay. Lý giải vì sao người Việt vẫn thờ nữ Thần, giới nghiên cứu cho rằng, Đạo Thánh Mẫu với tục thờ Thần là người Mẹ hình thành từ buổi bình minh dựng nước, đã đươc xã hội dùng mọi hình thức bảo vệ trước sức mạnh đông hóa của mọi thế lực xâm lược, nên đủ sức tồn tại và phát triển cho đến ngày nay.
Bản chất và nội dung cơ bản của Đạo Mẫu
Tín ngưỡng thờ Mẫu là việc tôn thờ nữ Thần; thờ Mẫu với Tam phủ và Tứ phủ ở Viêt Nam rất phổ biến và có nguồn gốc xã hội sâu xa. Tuy tôn sùng nữ Thần, nhưng giữa nữ Thần với Thánh Mẫu và Mẫu Tam phủ,Tứ phủ lại không đồng nhất.
Tượng Tam Tòa Thánh Mẫu
Đạo Mẫu là tín ngưỡng lấy tôn thờ Mẹ với các quyền năng sinh sôi, che chở cho con người làm thần tượng. Trải qua hàng vạn năm với vô vàn biến cố, Đạo Mẫu từng bị các tôn giáo khác chèn ép bằng cả sự cường bạo của nhà nước cầm quyền, nhưng vẫn tồn tại,không bị hạn chế hoặc thu hẹp phạm vi ảnh hưởng. Với đức tin không giáo phái, giáo lý Đạo Mẫu cảm hóa và hòa đồng hầu như tất cả mọi tín đồ của các tôn giáo du nhập bằng bàn thờ gia tiên, là đức tin gốc của Đạo. Tôn thờ Thánh Mẫu Việt thể hiện truyền thống gia tộc, Tổ tiên; ý chí đoàn kết, tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc vào một niềm tin thế tục là người Mẹ. Đao Mẫu không phải là một định chế xã hội, càng không có sự đối lập về quan điểm với những đạo giáo khác nên chưa từng gây ra xung đột tôn giáo và sắc tộc. Nhiều tôn giáo khuyên con người sống đức độ, chiu đựng ở kiếp này để kiếp sau được lên thiên đàng hoặc thoát khỏi vòng luân hồi, riêng Đạo Mẫu lại răn dạy tín đồ sống thiện ở đời này, kiếp này. Sống thiện thì giàu có,khỏe mạnh và hưởng phúc; ngược lại,sống độc ác thì bị trừng phạt, quả báo ngay trong kiếp sống hiện tại. Trong kỳ họp Uỷ ban Liên Chính phủ về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO tại thành phố Addis Ababa ( Cộng hòa dân chủ Ethiopia) vào ngày 01 tháng 12 năm 2016, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” đã được tổ chức này ghi nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.
Theo nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phương, hệ thống giáo lý và tín điều Đạo Mẫu được thể hiện trong 5 chân kinh, 5 phạm trù, 4 đức tin và 12 điểu răn đạo lý. Theo đó,Căn giác chân kinh giảng về toàn bộ căn nguyên vũ trụ và con người; Kinh nhật tụng để đọc hàng ngày và khi lễ Thánh; Luật kinh nói về giới hạn tín hữu phải làm và những điều cấm kỵ; các điều răn để xây dựng con người hướng thiện; Luận kinh giảng về sự khai tâm, mở lối bỏ điều xấu, nhận biết đức độ để đi vào tu thân hướng thiện.
Phạm trù Đạo Thánh Mẫu đề cập đến các quan điểm giáo lý, thực hiện trên nguyên tắc bảo tồn,phát huy truyền thống phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc. Luận giải về phạm trù, Đạo Mẫu nhìn nhận, Vũ trụ nguyên thủy là Thái cực, một nhất thể sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng nghi sinh Tứ tượng; Tứ tượng biến hóa không ngừng với Tứ đức, thể hiện trấn giữ bốn phương chính là sự luân chuyển 4 mùa trong năm. Đạo Mẫu nhấn mạnh đến Trung, Hiếu, Tín, Nghĩa, 10 điều thiện trong giới luật và 12 điều cấm kỵ đối với tín hữu.
Đạo Mẫu khuyên con người tự tu thân trong cuộc sống hàng ngày, trau đồi đạo đức ngay lúc sinh thời; không thể loại bỏ khổ đau, kiếp nạn chỉ bằng cầu nguyện mà không tự tu thân. Tu thân tich đức là bổn phận của tín hữu trong Luật kinh,còn xác tín là việc thực hiện nghi lễ tâm linh trên tinh thần giác ngộ, thông tuệ để xác định chính xác một sự kiện hệ trọng của Đạo.
Đạo Mẫu sức sống kỳ diệu qua các thời kỳ cho đến ngày nay
Từ thời nguyên thủy, Đạo Mẫu đã thỏa mãn tâm lý của người dân cầu mong sự sinh sôi nảy nở. Đạo từng tồn tại lâu dài trong các chế độ cũ, đáp ứng nhu cầu không chỉ của cư dân nông thôn mà còn ở cả các tầng lớp thương nhân đô thị. Đạo đã phát triển rộng khắp ở cả đồng bằng, đô thị và miều núi, tạo nên nét nổi bật trong bức tranh đa dạng và phong phú của tôn giáo, tín ngưỡng Việt Nam.
Là tín ngưỡng bản địa có nguồn gốc lâu đời, Đạo Mẫu đã tiếp nhận ảnh hưởng tốt của Phật giáo và Nho giáo. Đạo tôn thờ Mẹ là đấng sáng tạo và bảo trì vũ trụ, là nơi con người ký thác những mong ước, khát vọng về đời sống trần thế nhằm đạt được sức khỏe và tài lộc. Đạo Mẫu thể hiện khả năng tích hợp tín ngưỡng cao, làm cho bộ mặt văn hóa mang tính đa dạng, đa tầng của các tộc người cùng sinh sống. Hiếm có một tôn giáo nào lại có khả năng tự biến đổi và trẻ hóa như Đạo Mẫu.
Đạo Mẫu làm nên đức tin đạo lý gia tiên trong xây dựng Tâm Đức thiện. Cho dù xã hội đã phát triển với nhiều bước tiến của khoa học, nhưng Đạo Mẫu vẫn có vị thế ngày càng quan trọng, bởi nó không chỉ là một tín ngưỡng cùng tồn tại mà còn có khả năng hòa hợp cùng với nhiều tôn giáo lớn khác để mở mang và phát triển. Sự kết hợp hài hòa giữa thờ Phật với thờ Mẫu và các chư vị Thánh, Thần trong nhiều ngôi Đình, Chùa, Đền, Miếu là một minh chứng cụ thể cho nhận xét này.
Các lễ hội hằng năm ở Việt Nam có nhiều, song sôi nổi nhất vẫn là nghi lễ của Đạo Mẫu ở các Điện thờ, Phủ thờ. Hầu Đồng là một phong tục không tách rời trong Đạo Mẫu; ở đâu có Thờ Mẫu thì ở đó tồn tại hầu Đồng. Đây là hình thức diễn lại sự tích của các vị Thánh, Thần; ca ngợi công lao, bày tỏ lòng thành kính mang sắc thái rất tôn nghiêm.
Hầu Đồng là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc, nghệ thuật diễn xướng và tấm lòng tôn kính Thần linh. Trong Hầu Đồng, người nhập đồng múa, hát theo tính cách của giá đồng, còn cung văn lại tấu lên những làn điệu chầu văn, mô tả nhân vật, quang cảnh nhân vật xuất hiện, kể sự tích và công đức của các Thánh, Thần. Đặc biệt, giai điệu và tiếng hát chầu văn dễ làm say đắm lòng người, khiến người xem như lạc vào thế giới siêu nhiên của các vị Thánh, Thần. Xét về tổng quan, Đạo Mẫu là một nét đẹp văn hóa mang đặc trưng dân tộc cần được bảo tồn và phát triển, nếu được giữ gìn và phát triển đúng hướng thì đó sẽ là một nét đẹp, một điểm nhấn trong Văn hóa dân tộc.
Thần học dân gian cho rằng, những người có Căn, Số nhất thiết phải ra hầu Đồng, lễ Thánh. Nghi lễ hầu Đồng do các Thanh Đồng hay Đồng Cốt thực hiện.Thanh Đồng gồm 4 loại đó là: Đồng Đua là người có tiền, đam mê nhưng không có căn số, những người này khá đông và thường gây ra tệ mê tín, dị đoan; Đồng Cơ là loại người mang tâm lý phải ra hầu Đồng, tiến Căn. Do không có linh giác và tâm thức nên loại đồng này dễ thái quá về hành lễ, họ thường bỏ ra nhiều tiền của để cúng tiến cho các Đền, Phủ. Đồng Bảo tồn là những Thanh đồng có căn,số đã làm lễ tiến Căn, trình Đồng và sau cùng là Đồng Thầy hay Đồng Quan, là một số ít người có căn, số sau khi làm lễ tiến Căn, trình Đồng, họ được mở Phủ để hầu Đồng.
Hầu Đồng được coi là một hoạt động văn hóa, nhưng “đồng bóng” trục lợi lại đang tạo ra nhiều khoảng tối, làm lẫn lộn trắng đen; có người quá sùng bái, cuồng tín, lại có người dị ứng cho rằng đồng cốt chỉ là mê tín dị đoan.
Giáo sư Ngô Đức Thịnh, người đã dành cả cuộc đời cho nghiên cứu Đạo Mẫu cho biết“…Chưa tính các đền phủ tư nhân, trong cộng đồng người Việt hiện có khoảng 7.000 đền, phủ thờ đạo Mẫu. Đây là sự thật khách quan, buộc phải nghiên cứu để hiểu rõ vì sao đạo Mẫu lại có sức sống lâu bền đến vậy! ”. Ông ghi nhận: “Tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng dân gian, chứa đựng những nhân tố về hệ thống vũ trụ luận nguyên sơ. Đây là một tín ngưỡng thể hiện ý thức nhân sinh, ý thức cội nguồn dân tộc, lòng yêu nước được linh thiêng hóa mà Mẫu là biểu tượng cao nhất”.
Thay cho lời kết
Hầu như mọi tôn giáo lớn ở nước ta đều du nhập từ bên ngoài vào, riêng Đạo Mẫu là trục tín ngưỡng dân gian, đã tồn tại suốt trong quá trình dựng nước và giữ nước. Đạo Mẫu đã góp phần vào bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc muôn đời, muôn thuở. Thờ Thần nhân dạng ở nước ta được khởi đầu từ sự ra đời của một bà Mẹ quyền năng.
Những năm đầu công nguyên, Đạo Phật được du nhập vào Việt Nam nhưng phải đến thế kỷ thứ VI mới phát triển thành một trung tâm Phật Giáo đồ sộ tại Luy Lâu (Bắc Ninh). Ngay khi vào đất Việt, Đạo Phật và Đạo Mẫu đã có sự gắn bó, nương tựa, dung hòa bổ sung lẫn nhau. Trong các ngôi chùa ngày nay có nhiều kiểu phối thờ “Tiền Thần, hậu Phật”, đây chính là mối quan hệ tương giao, tôn trọng lẫn nhau để cùng phát triển. Có thể nói, phối thờ Mẫu trong chùa là sự đảm bảo chắc chắn cho sự tồn tại của các đạo giáo này trên đất Việt. Tôn thờ Mẹ Đất, Mẹ Nước nên Quan Âm trong đạo Phật Việt Nam đã được hiện lên với hình tượng là người mẹ với khuôn mặt Nữ Thần. Theo các nhà phân tích, đạo Phật buộc phải dựa vào tín ngưỡng thờ Nữ Thần của người Việt cổ để tồn tại phát triển thành thế tam sơn; trên Phật còn có Cha trời, Mẹ Đất và người Mẹ Tổ tiên của dân tộc Việt./.
ThS. Vương Xuân Nguyên - TS. Lê Thành Ý