Độc đáo di sản văn hóa đồng bào Khmer đất chín rồng

Theo số liệu thống kê, khoảng hơn 1,3 triệu người người Khmer sống tập trung ở các tỉnh: Trà Vinh, Sóc Trăng, Kiên Giang, An Giang, Bạc Liêu, Vĩnh Long, Cần Thơ… đã tạo nên nền văn hoá đa dạng, mang sắc thái riêng độc đáo.

Mang bản sắc văn hoá riêng

Người Khmer là một dân tộc có nền văn hoá phát triển đa dạng gắn liền với những tín ngưỡng mang sắc thái riêng ảnh hưởng đậm nét văn hóa Ấn Độ và Phật giáo. Phật giáo đóng vai trò quan trọng và có vị trí cao nhất trong mọi lĩnh vực của đời sống người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long. Đa số, họ là Phật tử của Phật giáo Nam tông, vừa là thành viên của phum sóc (Kon sóc) vừa là “con Phật” ngay từ lúc họ mới ra đời, gắn với chùa. Chùa Khmer là một tổng thể kiến trúc đặc trưng của văn hóa Khmer với mái cao thẳng đứng, hoa văn họa tiết sơn vàng, hệ thống tượng tượng Phật, thần Kabil Maha Prum, nữ thần đất, hung thần Reahu, tiên nữ, vũ nữ Apsara, chằm, người chim, vua khỉ Hanuaman, rồng, rắn, linh thú. Chùa là nơi tụng kinh, thực hiện nghi lễ của Phật giáo,  dạy chữ Khmer, lễ hội, truyền bá kinh nghiệm sản xuất; là nơi gìn giữ, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể độc đáo.
 

Văn hoá tín ngưỡng của người Khơme có những giá trị rất đặc biệt, mang bản sắc rất riêng với cưới, sinh, tang ma…là một chuỗi những nghi lễ khá cầu kì và phức tạp được lưu giữ qua một số hình thức lễ hội như Tết Chôl Thnăm Thmây, ngày Choôl Sâng-Kran Thmây, ngày Vônabat, ngày Lơng Sak, Lễ cúng trăng (Óoc Ombóc), Lễ cúng ông bà (Sen Đôn Ta) và còn có đến gần 30 ngày lễ khác nhau bắt nguồn từ tín ngưỡng dân gian và Phật giáo như lễ cúng Niết Tà, cúng Arăk, cúng Tổ…

Cách ăn mặc của người Khmer đặc trưng là chiếc váy “xàm pốt” cho nữ và “xà rông” cho nam. Trong âm nhạc, người Khmer có dàn nhạc ngũ âm. Ngoài dàn nhạc ngũ âm còn có các nhạc cụ khác: đôi “chập ngã”; dàn nhạc dây “Plêing Khssè”; sáo trúc (Khloy); sân khấu Rôbăm, Yukê, múa Ram Vong, Lâm Leev, Saravan; Aday, Chhay Yam, hát ru con;  sân khấu Rô Băm và Dù Kê…
 
Người Khơme ĐBSCL ăn cơm tẻ và cơm nếp với các món ăn như xôi, bánh tét, bánh chưng, bánh chuối, bánh ú, làm rượu. Món đặc sản là bún nước lèo. Bún dẻo sợi nhỏ, khô, chan với nước lèo cá quả tán nhỏ cùng các loại gia vị, rau hành. Ngoài ra, họ thường phơi các loại cá ăn dần và chế thành nhiều loại mắm từ cá như bhóc. Mắm bhóc có thể làm bằng các loại cá nhỏ như cá sặc, cá chốt, cá mè, cá lòng tong. Mắm pro ot (bò ót), ơng pa, pơ ling làm bằng tép mồng, tép bạc và mắm chua pha ơk...
 
Mỗi năm người Khmer có riêng 8 lần lễ và đều cử hành ở chùa, gồm: Méakabauchia, lễ Đức Phật cho biết 3 tháng nữa sẽ nhập Niết bàn, khoảng đầu tháng 2 dương lịch; Chôl Ch’năm Thmây, lễ vào năm mới (Tết), giữa tháng 4; Visakabauchia, lễ Phật đản (nhập niết bàn), đầu tháng 5; Chôl Vô Sa, lễ Nhập hạ (các sư sãi ở trong chùa 3 tháng, không ra ngoài), đầu tháng 7; Phchum Ben hay Đônta, lễ xá tội vong nhân, giữa tháng 9; Chanh Vô Sa, lễ Xuất hạ (hết thời kỳ nhập hạ) đầu tháng 10; Ok Ang Bok, lễ cúng trăng, cuối tháng 10; Ka Thanh, lễ dâng y cho sư sãi, từ đầu tháng 10 đến giữa tháng 11. Trong đó, 3 lễ quan trọng nhất là Chôl Ch’năm Thmây, Đôn Ta, Ok Ang Bok. Chỉ có lễ Vào năm mới theo sự tích Bà La Môn, các lễ còn lại theo Phật giáo.

Bản sắc văn hóa dân tộc đang dần bị “lãng quên”

Trong dòng chảy hội nhập, những di sản văn hóa của đồng bào Khmer ngày càng có sự giao thoa, những yếu tố văn hoá ngoại lai đang dần xâm nhập đã tác động rất lớn đến nền văn hóa cổ truyền dân tộc Khmer Tây Nam bộ. Vì vậy, trừ các dịp lễ tết truyền thống, phần lớn đồng bào Khmer sử dụng ngôn ngữ, trang phục, ẩm thực… như người Kinh, một bộ phận đồng bào Khmer, nhất là giới trẻ dường như đang dần “lãng quên” bản sắc văn hóa dân tộc, rất ít khi sử dụng trang phục truyền thống, ngôn ngữ của dân tộc mình.
 
Để bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa của đồng bào Khmer, các cấp, các ngành cần  tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức của cộng đồng về bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Bởi, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Khmer không chỉ làm phong phú thêm nền văn hóa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam mà còn là vũ khí sắc bén đánh tan âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Giúp mọi người xóa bỏ tư tưởng mặc cảm, tự ti, thay đổi nhận thức, phải biết trân trọng và tự hào về dân tộc mình.
 
Đồng thời đẩy mạnh đào tạo nhân lực nòng cốt trong công tác bảo tồn, phát huy văn hoá dân tộc Khmer, đề cao vai trò của các sư sãi, nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng,  bồi dưỡng, tập huấn, hỗ trợ công tác truyền dạy và phát huy các giá trị văn hóa, nghệ thuật truyền thống dân tộc của cộng đồng, xã hội hóa các hoạt động văn hóa, thể thao… để từ đó nâng cao ý thức của đồng bào trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống.
 
Cùng với đó gắn bảo tồn, phát triển văn hoá dân tộc Khmer với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo mối quan hệ hài hoà giữa phát triển văn hoá và kinh tế; hài hoà giữa bảo tồn, phát huy và phát triển. Chú trọng xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho việc bảo tồn và nâng cao đời sống văn hóa cho đồng bào Khmer; đầu tư kinh phí để sưu tầm những giá trị văn hóa có nguy cơ mai một, hỗ trợ kinh phí cho các nghệ nhân mở lớp truyền dạy cho lớp trẻ về nghệ thuật, đưa chương trình dạy song ngữ (tiếng Việt - tiếng Khmer) để góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
 
Trương Anh Sáng

Link nội dung: https://phuongnam.vanhoavaphattrien.vn/doc-dao-di-san-van-hoa-dong-bao-khmer-dat-chin-rong-a17888.html