Nghệ An xưa nay được xem là vùng đất nghèo hiếu học, có rất nhiều nhân tài Xứ Nghệ nổi danh trong, ngoài nước và có nhiều danh thắng đẹp nổi tiếng cũng như có rất nhiều nét đẹp văn hóa mà người Xứ Nghệ dù đi xa vẫn nhớ đến và những người nơi xa từng ghé thăm một lần thì vương vẫn mãi không thể quên được.
Trong đó giá trị về văn hóa lịch sử luôn là nét đẹp trong suy nghĩ của mỗi người, đến Nghệ An, hãy thăm quan những danh thắng, thăm quan những địa danh tâm linh để hiểu hơn về vẻ đẹp xứ Nghệ. Đền Đức Hoàng là một địa danh văn hóa lịch sử được rất nhiều người biết đến, để hiểu hơn về sự tích cũng như các giá trị văn hóa thì chúng ta cần tìm hiểu kĩ hơn.
Đền Đức Hoàng
Đền Đức Hoàng thuộc xã Phúc Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An, cách thành phố Vinh chừng 60km về phía Bắc, du khách có thể đến tham quan bằng xe máy hoặc xe buýt tuyến chạy dọc theo đường 538. Đền Đức Hoàng tọa lạc trên một vùng đất rộng, cao hướng ra “Linh đàm Diệu ốc” hương sen tỏa sắc bốn mùa. Với nhiều lần tu sửa trùng tu, nhưng đền vẫn giữ nguyên trạng thái di tích gốc, đảm bảo sự tôn kính thâm nghiêm. Sau đền là rừng cây cổ thụ nguyên sinh, cây xanh tỏa bóng ôm đền vào sự tĩnh lặng nên địa danh này được xem là một trong những cảnh đẹp nổi tiếng nhất nhì của tỉnh nhà Nghệ An. Đền được xây dựng để thờ vị tướng đã có nhiều chiến công hiển hách trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên, đền có 3 tòa gồm tòa thượng, trung và hạ điện, quy mô kiến trúc không lớn nhưng cổ kính, linh thiêng, trở thành nơi sinh hoạt văn hóa tâm linh, đậm đà bản sắc văn hóa của vùng quê xứ Nghệ.
Theo sử sách xưa ghi lại rằng đền Đức Hoàng là công trình văn hóa, tâm linh, được nhân dân xây dựng vào năm 1505 để phụng thờ các vị thần linh đã có công “Bảo Quốc hộ dân”, mà nhân vật trung tâm đó là “Sát Hải Đại Vương” Hoàng Tá Thốn, một vị tướng có tài bơi lội và giỏi võ nghệ đã có nhiều cống hiến lớn lao trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược vào thế kỷ thứ XIII. Theo văn bia “Nam miếu tôn thần sự tích” của Cao Xuân Dục – Tổng tài Quốc sử quán Triều Nguyễn biên soạn năm 1899, gia phả họ Hoàng và thần tích đền Sát Hải Đại Vương ở thôn Vạn Tràng, thì ngài Hoàng Tá Thốn sinh năm 1254, trong một gia đình làm nghề chài, lưới ở thôn Vạn Phần (nay thuộc xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu). Vốn thông minh, dũng mãnh hơn người và tài võ nghệ, bơi lội nên vào năm 1285, khi giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 2, ông được cử vào đội thủy quân thiện chiến và được phong “Nội gia thư” dưới quyền lãnh đạo của chủ tướng Trần Quốc Tuấn. Trong chiến trận, Hoàng Tá Thốn luôn tỏ ra một vị tướng tài ba, nhiều lần lập chiến công xuất sắc. Năm 1288, khi giặc Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ 3, Hoàng Tá Thốn được giao trọng trách thống lĩnh hàng vạn quân thủy và tàu chiến, trận chiến thắng thủy quân ta với chiến thuật lặn sâu đục thuyền giặc, phá tan chiến thuyền của tướng Ô Mã Nhi và Phàn Tiếp trên sông Bạch Đằng đã góp phần to lớn làm nên đại thắng đuổi giặc Nguyên Mông ra khỏi bờ cõi.
Lễ rước kiệu đền Hoàng
Sau chiến thắng giặc Nguyên Mông, vua Trần Nhân Tông đã phong cho Hoàng Tá Thốn chức “Sát Hải Đại Vương” thống lĩnh quân đội phòng giữ vùng duyên hải. Khi đất nước sạch bóng quân thù, ông được vua Trần Nhân Tông phong làm thống lĩnh các đội thủy binh, coi giữ 12 cửa biển, bảo vệ đường duyên hải từ miền Trung trở vào. Những năm đất nước hòa bình, độc lập, ông đã tham mưu cho vua Trần Nhân Tông nhiều kế sách trong việc củng cố, xây dựng và rèn luyện võ nghệ cho lực lượng thủy binh. Những lần giặc Chiêm Thành sang giấy rối hải phận nước ta, Hoàng Tá Thốn đã trực tiếp chỉ huy và đánh tan quân giặc. Khi vinh quy bái tổ, thấy cảnh xóm làng tiêu điều, dân tình khổ cực do chiến tranh, thiên tai và dịch bệnh hoành hoành, ông đã bỏ tiền của, cùng các con trai của mình đưa dân cư ven biển Vạn Phần lên vùng đất Yên Thành khai hoang, lập làng, đào đắp các công trình thủy lợi, đưa nước ngọt về tưới tiêu ruộng đồng.
Thời gian sau ông lâm bệnh và tạ thế vào ngày 01-1-1338, trong một lần đi tuần ở bờ biển thuộc địa phận huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa. Triều đình nhà Trần vô cùng thương tiếc và cho thuyền rồng chở linh cữu về quê nhà ở làng Vạn Phần, xã Diễn Vạn, huyện Diễn Châu an táng và phong tước hiệu “Trung dũng Bảo dực trung hưng, hộ Quốc tỷ dân, Sát Hải Đại tướng quân, Thiên bồng nguyên soái chi thần” . Ông là một vị tướng tài ba, có công với nước với dân nên khi ông mất đi triều đình đã cho lập đền thờ ở nhiều nơi trong đó có đền Đức Hoàng ở Yên Thành hiện là Đền Hoàng cổ kính, thiêng liêng nhất. Với những nét đẹp về văn hóa, năm 1997 nhà nước đã công nhận đền Đức Hoàng là di tích lịch sử - văn hóa cấp quốc gia.
Lễ hội đền Đức Hoàng được tổ chức vào ngày 30/1 - 1/2 (âm lịch) hằng năm, thu hút đông đảo nhân dân trong vùng và du khách thập phương đến tri ân, thăm viếng và trở thành lễ hội có quy mô cấp huyện, cấp tỉnh. Về với lễ hội đền Đức Hoàng du khách như được thả mình trong không gian xanh, sinh thái, trước ban thờ thắp nén hương, như được trở về cố hương sống lại trong hoài cổ. Vào những ngày 28- 29 tháng giêng 01 tháng 2 là ngày đại tế, lễ rước thần linh vi hành quanh hồ Diệu Ốc, cả một vùng trời lộng lẫy cờ lọng, trống chiêng cùng dòng người đông đúc đủ mọi lứa tuổi. Kiệu rồng rước bài vị của 14 dòng họ đại tôn trong vùng hòa mình tiến bước cùng kiệu thần Sát hải đại vương Hoàng Tá Thốn và các linh thần khác thờ tự tại đền Đức Hoàng vào hội. Sau rước thần linh là lễ tân và đại tế, sự quy chuẩn và bài bản trong tế lễ thần linh tại đền, đã thành thông lệ chu tất, trang nghiêm, khoa học, mang tính triết lý xã hội phương Đông. Ngoài việc khôi phục các hoạt động truyền thống, dân gian của phần lễ và phần hội, lễ hội ngày nay còn tổ chức và thường xuyên đổi mới các hoạt động như liên hoan các câu lạc bộ tuồng, các câu lạc bộ dân ca Xứ Nghệ, hội diễn văn nghệ, cắm trại,… Bên cạnh các trò chơi dân gian, các trò chơi hiện đại cũng được lồng ghép trong lễ hội với nhiều hình thức đa dạng, sắc màu; các hoạt động thể dục - thể thao như bóng chuyền Nam, Nữ, cầu lông, bóng bàn được tổ chức sôi nổi. Trong những năm đổi mới, đền Đức Hoàng được các cấp ủy Đảng, Chính quyền và nhân dân công đức tu bổ tôn tạo, chống xuống cấp, khuôn viên di tích được quy hoạch và mở rộng.
Những vẻ đẹp văn hóa cần được lưu giữ bảo tồn để nét đẹp ấy mãi trường tồn theo thời gian. “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên đi tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả”, đó là cái mà mỗi con người khi đi xa đều nhớ về, đó là nét đẹp của xóm làng sau lũy tre, là nét đẹp của quê hương, đất nước, con người Việt Nam.
Nguyễn Nhâm