Hơn thế nữa, câu văn này cũng khiến cho triệu triệu du khách khắp mọi miền thế giới tìm đến chiêm bái các “Cụ” Rùa đội bia Tiến sĩ ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội). Câu văn có sức sống mạnh mẽ, có ảnh hưởng to lớn đến sự hưng thịnh của cả một đất nước ấy là: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, Nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp”. Trong bài văn khắc trên bia Tiễn sĩ đặt ở Văn Miếu Quốc Tử Giám có tiêu đề “Đề tên tiến sĩ khoa học Nhâm Tuất niên hiệu Đại bảo thứ 3 (1442)”.
Minh họa: Ngô Xuân Khôi.
Tác giả câu văn khắc vào bia ký trên được đánh giá là bậc Danh Nho trùm đời. Ông là Thân Nhân Trung - Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân thời Hậu Lê.
Thân Nhân Trung tự là Hậu Phủ, người làng Yên Ninh (tục gọi là làng Nếnh), huyện Yên Dũng, trấn Kinh Bắc (nay thuộc xã Hoàng Ninh, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Ninh). Cho đến nay, vẫn không rõ Thân Nhân Trung đích thực sinh và mất năm nào, chỉ biết ông sinh khoảng năm 1418 và mất khoảng năm 1499. Quê hương Thân Nhân Trung nằm ngay trên đường từ Lạng Sơn về Thăng Long, cách không xa thành Xương Giang, nơi đã từng là một căn cứ quân sự trọng yếu của tướng Vương Thông trong thời kỳ nhà Minh (Trung Quốc) đô hộ nước ta (thế kỷ XV).
Vì gia phả họ Thân không còn, sử sách cũng không ghi lại được, nên không rõ Thân Nhân Trung bắt đầu được đi thi Hội từ khi nào, chỉ biết rằng, đến khoa thi Kỷ Sửu, niên hiệu Quang Thuận thứ 10 (1469), ông mới đi thi, đỗ Hội nguyên, khi đã trên dưới 50 tuổi - cái tuổi thủa ấy cho là đã lên lão. Điều này cho thấy Thân Nhân Trung là một tấm gương hiếu học. Nhưng khi vào thi Đình để xếp hạng cao thấp, Thân Nhân Trung chỉ đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Khoa thi này có 22 người đỗ, không có Đệ nhất giáp Tiến sĩ, chỉ có 2 người đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân là Phan Phiên và Nguyễn Như Uyên. Khi đã chính danh, Thân Nhân Trung mới thực sự bước sang bước ngoặt mới của cuộc đời, đem hết sở học của mình thi thố với đời.
Song, nếu như chỉ có thực tài không thôi mà không gặp thời - thế, thì tài năng ấy cũng khó có cơ hội để được trọng dụng. May mắn cho Thân Nhân Trung, đương thời, ông sống trong chế độ minh quân, với vị Vua Sáng Lê Thánh Tông, đời thịnh trị 38 năm (từ năm 1460-1497), đưa nước ta trở thành một nước hùng cường vào bậc nhất trong khu vực Đông Nam á bấy giờ, cũng như lịch sử phong kiến Việt Nam. Con mắt xanh của Lê Thánh Tông đã thấu dọi tài năng của Thân Nhân Trung. Ông đánh giá rất cao tài năng Thân Nhân Trung, trao cho ông nhiều chức vụ quan trọng, trong đó nhiều lần cử Thân Nhân Trung làm độc quyển cho các kỳ thi Đình. Năm Hồng Đức thứ 24 (1483), Lê Thánh Tông sai Thân Nhân Trung lúc đó làm Hàn lâm viện thừa chỉ Đông các đại học sĩ, cùng với Ngự sử đài phó đô ngự sử kiêm Tả xuân phường, Tả trung doãn Quách Đình Bảo, Đông các hiệu thư Đỗ Nhuận, Hàn lâm viện thị thư Đàm Văn Lễ, bắt đầu soạn sách: Thiên Nam dự hạ và Thân Chinh ký sự. Thân Nhân Trung còn được giao làm Phó nguyên soái Hội thơ Tao Đàn mà Lê Thánh Tông trực tiếp làm Đô nguyên soái. Không phụ sự ủy thác của nhà vua, Thân Nhân Trung rất cần mẫn trong công việc, góp công làm nên đời thịnh trị Lê Thánh Tông.
Năm Hồng Đức thứ 15 (1484), lịch sử giáo dục Việt Nam ghi dấu một sự kiện vô cùng quan trọng và có ý nghĩa lớn. Vua Lê Thánh Tông đã đưa ra một chế định là khắc tên các Tiến sĩ vào bia đá đặt trên lưng rùa đá đặt ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Với một đất nước có nghề điêu khắc đá phát triển, có nhiều nghệ nhân tài ba thì công việc tạo tác Cụ Rùa, bia đá và khắc chữ trên đá không khó khăn lắm. Điều khó nhất của công việc này là soạn bài văn để khắc trên bia đá. Bởi, lời văn đó phải lột tả hết ý tưởng của vị Minh Quân Lê Thánh Tông không chỉ để răn dạy quan lại và người dân đương thời, mà còn là thông điệp của thời đại và cá nhân Lê Thánh Tông gửi gắm cho muôn đời sau. Trong một thời kỳ đất nước có rất nhiều người tài, có cả Hội thơ Tao Đàn mà chính Lê Thánh Tông là Chủ soái có nhiều người hay chữ, chọn được người để phó thác công việc này, cũng là việc khó khăn. Và, Lê Thánh Tông đã trao trọn trọng trách này cho Thân Nhân Trung. Đây là vinh dự , song cũng là thách thức lớn. Thân Nhân Trung đã dũng cảm nhận trách nhiệm và đã không phụ sự tin tưởng ủy thác của Lê Thánh Tông.
Công việc dựng bia Tiến sĩ đặt ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám được quyết định tiến hành năm 1484, song không chỉ dựng bia cho riêng và bắt đầu từ khoa này trở thành tiền lệ cho các khoa thi sau, mà sẽ dựng bia cho các khoa thi trước đó, từ khoa thi tuyển Tiến sĩ Nho học diễn ra vào năm Nhâm Tuất (năm 1442), niên hiệu Đại Bảo thứ 3, triều Lê Thái Tông. Chọn khoa thi này, bởi năm 1442 diễn ra hai sự kiện đáng nhớ trong lịch sử Việt Nam, là: Vụ án oan Lệ Chi Viên dẫn đến Nguyễn Tr•i bị chu di tam tộc, và là năm sinh của vua Lê Thánh Tông.
Bài văn bia này có tiêu đề: “Đề tên Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba (1442)”. Văn bia có đoạn: “Hiền tài là tinh túy của quốc gia, tinh túy thịnh thì thế nước mạnh và càng lớn lao, tinh túy suy thì thế nước yếu mà càng xuống thấp. Bởi vậy các bậc vua tài giỏi đời xưa chẳng có đời nào lại không chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo nhân tài, bồi đắp thêm tinh túy”. Lần đầu tiên trong lịch sử Nho Giáo, Thân Nhân Trung khẳng định vai trò của kẻ sĩ tạc trên bia đá và lý do dựng bia đá đề tên Tiến sĩ: “Kẻ sĩ có mối quan hệ thật là quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Vì thế, cái ý tôn trọng họ thật là vô cùng, nên đã ban ân sủng bằng khoa danh, lại gia thêm bằng tước trật, ơn ban cho đã lớn, vẫn còn cho là chưa đủ. Lại cho đề tên ở Tháp Phạn, ban tự hiệu ở bảng Long Hổ, mở tiệc vui triều đình mừng được người tài, không cái gì không ở mức cao nhất. Ngày nay Thánh Thượng cho rằng việc lớn lao đẹp đẽ tuy lừng lẫy vang dội một thời, song lời khen tiếng thơm chưa đủ để truyền lại vạn đời. Cho nên dựng đá đề tên đặt ở cửa Quốc Tử Giám, khiến kẻ sĩ trông lên thấy hâm mộ, phấn khởi, cố gắng rèn luyện danh tiết, dốc sức giúp rập hoàng gia. Há chỉ là chuộng hư danh ham văn suông mà thôi đâu. Ôi! kẻ sĩ chốn trường ốc, lều tranh, số phận thật nhỏ bé mà được triều đình đề cao như vậy thì cái chí của họ vì tự trọng bản thân mà phải lo báo đáp. Hãy đem tên họ những người đỗ trong khoa này mà kê lại”. cũng chính Thân Nhân Trung đã nhìn ra những điểm yếu, hạn chế của kẻ sĩ và đưa ra lời cảnh báo cũng như ý nghĩa, tầm quan trọng của bia tiến sĩ: “Những người đưa vào văn học chính sự tô điểm cho cảnh thịnh trị, thanh bình, vài chục năm trở lại đây, được quốc gia tin dùng, kể cũng nhiều vậy. Nhưng trong số đó cũng có kẻ vì hối lộ mà hư hỏng, hoặc sa ngã vào cùng loại với bọn gian ác, là bởi vì lúc ấy họ sống chưa được nhìn thấy tấm đá trinh bạch này thôi. Giả sử hồi đó họ kịp nhìn thấy thì ắt hẳn lòng thiện sẽ tràn đầy, ý ác được ngăn chặn, đâu dám làm chuyện càn bậy. Thế thì việc dựng tấm bia đá này, ích lợi biết chừng nào. Kẻ ác lấy đó làm răn, người thiện theo đó mà cố gắng. Làm sáng tỏ những điều đã qua, mở rộng dậy bảo cho hậu thế. Một là để dài mãi tư chất danh tiết cho kẻ sĩ, hai là củng cố sự bền vững của quốc gia. Thánh thần làm như vậy, đâu phải chuyện vô ích. Vậy ai nhìn thấy cũng nên hiểu rõ ý này.”
Bài văn bia của Thân Nhân Trung được khắc lên bia đá khoa thi năm 1442 dưới thời Lê Thái Tông, là tấm bia đầu tiên ở Văn Miếu, dựng ngày 15 tháng 8, năm Hồng Đức thứ 15 (1484).
Đối với quê hương - làng Nếnh, Thân Nhân Trung là người khai khoa, xây nên truyền thống thi thư của làng. Kể từ Thân Nhân Trung (đỗ năm 1469) đến khoa thi Kỷ Mùi, niên hiệu Hoằng Định thứ hai mươi (năm 1619), Hoàng Công Phụ đỗ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân, trong khoảng 150 năm Yên Ninh có 10 người đỗ đại khoa, trong đó họ Thân có 4 người.
Tiếp bước người cha, người ông hiếu học, tài năng, đức độ và là bậc lương đống của triều đình như vậy, con cháu Thân Nhân Trung cũng làm minh triết câu “Hổ phụ sinh hổ tử”. Tiếp nối Cha, là người con thứ của Thân Nhân Trung là Thân Nhân Vũ, thi đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu, Hồng Đức 12 (năm 1481). Tiếp theo người chú ruột Thân Cảnh Vân, con trai Thân Nhân Tín, cháu đích tôn Thân Nhân Trung, vào năm 25 tuổi đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa) khoa Đinh Mùi, Hồng Đức 18 (năm 1487). Và người thứ ba là Thân Nhân Tín, con đầu của Thân Nhân Trung, đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Canh Tuất, Hồng Đức 21 (1490) khi đã 52 tuổi. Ông đỗ sau con trai 3 năm (1 khoa), và chỉ đỗ Tiến sĩ. Như vậy cả cha con, ông cháu Thân Nhân Trung trước sau có 4 người đỗ đại khoa và làm quan cùng triều, nêu cao tấm gương về gia đình hiếu học của làng Nếnh nói riêng đất nước Việt Nam ta nói chung.
Trước cảnh thịnh đạt ấy của gia đình Thân Nhân Trung, vua Lê Thánh Tông đã làm thơ ca ngợi:
Thập Trịnh đệ huynh liên quý hiển
Nhị Thân phụ tử mộc ân vinh
Dịch:
Mười anh em nhà họ Trịnh nối nhau quý hiển
Hai cha con nhà họ Thân tắm gội ân vinh
Thân Nhân Trung được Thái tử Tăng (sau làm vua là Lê Hiến Tông) làm thơ tiễn và ca ngợi lòng hiếu thảo khi ông về quê bái yết tổ tông, tảo mộ:
Cố lư tình vọng Bắc Giang vân
Hương tâm vô hạn tam bôi cửu
…Tu tín hiển dương chân thị hiếu…
Dịch:
Lòng nhớ về quê cũ nơi đám mây phía bắc Giang
Dạ nhớ quê vô hạn, đành gửi vào ba chén rượu
…
Nên tin vào lòng hiếu này hiển nhiên, chân thực.
Sau khi vua Lê Hiến Tông nối ngôi, ông vẫn tin dùng, yêu mến Thân Nhân Trung. Bạn bè cũng rất ca ngợi ông:
“Riêng một mình đứng tên thứ nhất của Tao Đàn
Văn chương trùm đời, thực là tay đại bút”
(Hà Nhậm Đại)
Cuộc đời và sự nghiệp của một Thân Nhân Trung tài năng, đức độ, chính là một trong những minh chứng hùng hồn cho chính sách bồi dưỡng, sử dụng hiền tài của Lê Thánh Tông, nhờ đó đã đưa đất nước trở thành thịnh trị. Thật xứng là một bài học cho muôn đời. “Hiền tài là nguyên khí quốc gia, Nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, Nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp”. Chân lý ấy đã được khẳng định, còn nguyên giá trị kim chỉ nam trong đời sống hôm nay và muôn sau.
Trương Nguyễn